NGỤY
KINH
LĂNG-NGHIÊM
và Phản Biện
Tác giả.
BI TRÍ
&
PHỔ ĐỨC HẢI TRÀNG
Biên dịch và phản biện.
Nguyễn Thành Sang
楞嚴偽經
Tác
giả: Vương Chí Cương (Bi Trí).
Việt
dịch: Nguyễn Thành Sang (Diệu Trai).
Năm 2017
LỜI NÓI ĐẦU
Hai ngàn năm trăm năm trước, sau khi đức Phật nhập Vô dư Niết-bàn được 3
tháng, dưới sự cúng dường và che chở của vua A-xà-thế, năm trăm vị La-hán nhóm
tôn giả Đại Ca-diếp tiến hành kết tập Pháp và Luật mà Phật đã thuyết, do tôn giả
A-nan tụng ra Pháp tạng, do tôn giả Ưu-ba-li tụng ra Luật tạng.
Tỉ như:
“Tôn giả A-nan gộp tất
cả những Pháp tạng như vậy. Có câu văn dài gom làm Trường A-hàm; có câu văn vừa
gom làm Trung A-hàm; có câu văn tạp gom làm Tạp A-hàm, đó là căn tạp, lực tạp,
giác tạp, đạo tạp, những điều như vậy gọi là Tạp; thêm một thêm hai thêm ba cho
đến lên thêm trăm, đi lên theo từng số loại, gom lại gọi là Tăng Nhất A-hàm. Tạp
Tạng tức là Bích-chi Phật hay A-la-hán tự nói nhân duyên bản hạnh, những bài kệ
tụng như vậy gọi là Tạp Tạng… Tôn giả Ưu-ba-li liền suy nghĩ vầy: Nay ta kết tập
Luật tạng thế nào.” (Luật)[1]
Pháp tạng còn được gọi là Kinh tạng, Bắc truyền Hán văn chỉ có bốn bộ
Kinh A-hàm là: Kinh Trường A-hàm, Kinh Trung A-hàm, Kinh Tạp A-hàm và Kinh Tăng
Nhất A-hàm, tương ứng với Trường Bộ,
Trung Bộ, Tương Ưng Bộ và Tăng Chi Bộ
của Kinh tạng tiếng Pāḷi, ngoài ra còn có Tiểu
Bộ mà Bắc truyền chưa dịch, chính là Tạp Tạng.
Các bộ Kinh A-hàm[2]
là nguyên thủy nhất, có thẩm quyền nhất, có đủ sức thuyết phục nhất rằng đó là
Chính Pháp nguyên thủy của Phật, là điều mà bốn chúng tăng tục bất kể Nam truyền
hay Bắc truyền, thậm chí mọi tông phái đều đồng tình, công nhận duy nhất là
Kinh chân thật đáng tin nhất do kim khẩu Phật-đà nói ra, được sự che chở và hoằng
truyền bởi chư thượng tọa Đại Bỉ-khâu chúng, đại đệ tử thượng thủ, các trưởng
lão kì túc nòng cốt trong Tăng đoàn, là hạt nhân và là nền tảng của Phật Pháp.
Các hành đều là vô thường, là pháp sinh diệt biến dị, Chính Pháp Phật-đà
lan truyền thế gian ắt cũng hưng quá thành suy, trở về tàn lụi. Ở trong Kinh–Luật,
đức Phật đã từng nhắc đi nhắc lại rằng Chính Pháp trụ thế chỉ có 500 năm.
Tỉ như:
“A-nan! Nay Chính
Pháp chỉ trụ năm trăm năm.” (Luật)[3]
“A-nan! Nếu không
cho người nữ được chí tín, xuất gia, sống không nhà và học đạo trong Chính Pháp
này, Chính Pháp sẽ trụ một ngàn năm. Nay mất đi năm trăm năm, chỉ còn có năm
trăm năm.” (Kinh Trung A-hàm)[4]
Đức Phật cũng từng ghi nhận Chính Pháp sẽ vì sự xuất hiện của nhiều “ngụy
kinh” mà biến đổi thành Tượng Pháp tương tự.
Tỉ như:
“Có những món châu
báu giả tương tự có mặt trên thế gian, châu báu giả ra đời thì món quý báu thật
mất đi. Như vậy, này Ca-diếp, khi Chính Pháp của Như Lai muốn diệt thì có Tượng
Pháp tương tự sinh ra. Tượng Pháp tương tự xuất thế gian rồi thì Chính Pháp sẽ
diệt.” (Kinh Tạp A-hàm)[5]
Lịch sử phát triển đúng như lời đức Phật đã tiên tri, sau khi Phật nhập
diệt 500 năm dần dần đi vào thời kỳ Tượng Pháp, hóa ra Tượng Pháp “Đại thừa,” thậm
chí càng thay đổi thêm, nhất là trở thành “Đại thừa Bí mật” tức “Mật thừa” Lạt-ma
giáo, trở nên hưng khởi và lan rộng nơi đời, cùng với đó là phong trào ngụy tạo
Kinh Phật trải qua gần một ngàn năm, không chỉ mặc tình bịa đặt nhiều loại ngọc
giả không rõ ràng tức là Ngụy kinh Tượng Pháp tương tự, đã vậy còn có chuyện cực
kỳ cong vạy, dè bỉu Chính Pháp “Kinh A-hàm” Đại thừa của đức Phật là “Tiểu thừa.”
Kèm theo đó châu báu giả tức ngụy kinh tương tự cứ tiếp nối mà hoành hành ở đời,
châu báu thật tức là Kinh A-hàm Chính Pháp của Phật dần dần bị ngọc giả thay thế
mà ẩn chìm, thậm chí đến nay gần 2.000 năm những Phật tử đọc qua Kinh A-hàm ít
như sao buổi sớm, đúng như lời tiên tri của Phật “Tượng Pháp tương tự xuất thế
gian rồi thì Chính Pháp sẽ diệt.”
Tuy nhiên, Phật Pháp Đại thừa thật sự thù thắng nhất của đức Phật chỉ có
các bộ Kinh A-hàm và Tứ đế–Bát Chính đạo được nói trong đó.
Tỉ như:
“Pháp nghĩa tối thắng
của chư Phật tức là: Khổ, Khổ tập, Khổ diệt và con đường diệt Khổ.” (Trường Bộ)[6]
“Nếu có vô lượng thiện
pháp, tất cả pháp kia đều được thâu nhiếp bởi Tứ Thánh đế; đi vào trong Tứ
Thánh đế tức là Tứ Thánh đế nơi tất cả pháp rất là bậc nhất.” (Kinh Trung A-hàm)[7]
“Chính Pháp là những
gì? Luật thừa, Thiên thừa, Bà-la-môn thừa, Đại thừa. Cái có thể điều phục quân
phiền não đó là Bát Chính Đạo. Bát Chính Đạo là Chính kiến cho đến Chính định.” (Kinh Tạp A-hàm)[8]
Kinh A-hàm ngọc thật được các Trưởng lão Thượng tọa bảo vệ và hoằng truyền
là Chính Pháp chân Đại thừa, lại bị tùy tiện chê bai là “Tiểu thừa,” thật ra là
bị hóa đổi thành ngụy kinh ngọc giả của thứ ngụy Đại thừa, ngụy Đại thừa Bí mật,
còn được cổ vũ, nêu bảng là “Kinh Đại thừa,” thậm chí “Kinh Mật thừa,” điên đảo
làm sao.
Phật Pháp xáo động thay đổi đã mấy ngàn năm, các bộ Kinh A-hàm là thượng
lưu đầu nguồn của Chính Pháp Phật-đà thuần nhất không tạp chảy xuống hạ lưu Tượng
Pháp “Đại thừa” cho đến “Mật thừa” thật là đã nhơ nhuốc đục ngầu, dù coi đó là
Pháp lưu (dòng chảy của Pháp), nhưng không còn sự trong vắt của nguồn Pháp nữa.
Như trái đào mận xinh đẹp bị thối rữa bên trong, Tượng Pháp biến dạng cũng lại
như vậy, tuy tự khoe thù thắng, có vẻ cao thâm, nếu dùng một mũi gươm trí tuệ của
Chính Pháp Phật-đà đâm nát thì sẽ chảy ra toàn là nước mủ tanh hôi.
Đức Phật luôn luôn tán thán sự bẻ gãy tà luận, bài phá tà thuyết, luôn
nhắc rằng một trong những điều kiện để Phật nhập Niết-bàn là Thánh đệ tử Thanh
văn có thể giỏi phá dị luận.
Tỉ như:
“Luôn luôn hợp thời
đè phục ngoại đạo ngu si, tạo dựng Chính luận.” (Kinh Tạp A-hàm)[9]
“Hỡi Ma Vương tội lỗi!
Ta chưa nhập Niết-bàn. Vì cớ sao? Ta chưa có đệ tử Thanh văn thông minh trí tuệ,
nếu có người khác hỏi thì đáp theo đúng Pháp, giỏi phá dị luận mà rộng xây
Chính Pháp.” (Luật)[10]
“Nếu Thánh chúng đệ
tử Thanh văn của Ta chưa có trí tuệ thông đạt hiểu thấu biện rõ nói bằng Chính
Pháp, bẻ gãy tà luận, giương tỏ Thánh giáo, có thể lưu thông… nay không thích hợp
để Ta nhập Đại Niết-bàn.” (Luật)[11]
Bi Trí hơn mười năm nay bài phá rất nhiều tà giáo và tà sư, mà tà thuyết
của các tà sư này hoặc leo trèo xuyên tạc hoặc nói theo sửa đổi, là Tượng Pháp
thay dòng, vì thế, chỉ theo Tượng Pháp biến dạng tức có thể bài xích và chứng
ngụy những thứ tà thuyết dựa theo Tượng Pháp biến dạng này mà càng thay đổi
thêm nữa. Hay nói cách khác, cái chủ yếu được Bi Trí chứng ngụy và bẻ gãy chỉ là
tà giáo làm leo lên, làm thay đổi và xuyên tạc Tượng Pháp chứ không phải bài
xích bản thân Tượng Pháp biến dạng, cũng đúng như lời Phật nói “dùng pháp của
những người ngu kia” hoặc “lấy pháp của kẻ tu hành ngoại đạo để khéo đánh bại
chúng.”
Tỉ như:
“Lành thay, cư sĩ!
Ngươi luôn luôn dùng pháp của bọn người ngu kia khéo đánh bại chúng. Thời, Thế
Tôn liền nói pháp để dạy dỗ, khuyên dẫn, khích lệ, chúc ngợi cư sĩ Cấp Cô Độc.” (Tăng Chi Bộ)[12]
“Này các Bỉ-khâu! Bỉ-khâu
đã trọn vẹn pháp lạp trăm tuổi ở trong Pháp và Luật này, như điều mà cư sĩ Cấp
Cô Độc đã làm là lấy pháp của kẻ tu hành ngoại đạo để khéo đánh bại chúng như vậy.” (Tăng Chi Bộ)[13]
Ngược lại, khi dập bẻ tà thuyết của Tượng Pháp ngày càng biến chất, nếu
bài phá luôn bản thân Tượng Pháp biến dạng một cách hoàn toàn thì e phạm sai lầm
về tính phương hướng mà không có mục tiêu nhắm vào, sẽ dễ dẫn đến dục tốc bất đạt.
Chỉ có kẻ phàm phu không hiểu logic mới cho rằng những dẫn chứng bị Bi
Trí dập bẻ thì ắt là được Bi Trí thừa nhận, ngược lại đấy, Tượng Pháp biến dạng
và những chứng cứ giông giống hay nghi là Phật thuyết được các tà sư dựa dẫm mới
có tính nhắm vào, hữu hiệu hơn, đúng theo cách gọi “dùng pháp của kẻ tu hành
ngoại đạo để khéo đánh bại chúng.” Những sách lược để phản tà xin xem rõ trong
bài Phản Tà Sách.
Kỳ thực, chính thuyết thì đại đồng tiểu dị, tà thuyết thì thiên sai vạn
biệt, chống chọi lẫn nhau. Cho nên theo bất kỳ một bộ ngụy kinh tương tự nào
thì e là cũng như theo bộ Kinh
Lăng-nghiêm, tức là có thể chứng ngụy và phá trừ những tà sư và tà giáo
tương quan với “Đại thừa,” chẳng luận là Pháp vương, Phật sống, Thượng sư hay vị
Kham-bố, Nhân-ba-thiết nào đó, cho đến tất cả kinh Đại thừa ngụy đều có thể
“dùng pháp của bọn người ngu kia” để phá đi. Đều vì Kinh Lăng-nghiêm được xưng là “đại biểu Chính pháp,” có quá nhiều
sai lầm về thường thức Phật học thậm chí tự mâu thuẫn nhau, tà sư và ngụy kinh
tà kiến đầy rẫy Hằng hà sa số không ngừng dứt không thể hoàn toàn nhất trí với
những sai lầm mà Kinh Lăng-nghiêm đã
phạm mà khéo sao còn trái ngược với cả chúng – vì những tà thuyết không bao giờ
giống nhau.
Khi Bi Trí đả phá những tà giáo biến dị nảy nở theo Tượng Pháp tương tự
thì quá khứ và tương lai vẫn dẫn chứng một cách đường đường chính chính, quang
minh chính đại về Kinh Đại thừa ngụy và ngụy thuyết biến dạng. Bi Trí dùng Kinh
Đại thừa hoặc ngụy thuyết biến dạng để phá tà giáo, thường so sánh với Kinh A-hàm Phật thuyết cho hữu hiệu hơn
và có tính mục tiêu hơn, đều vì tín đồ tà giáo cứ mê tín Tượng Pháp biến dạng là
“Đại thừa” Phật thuyết và sai lầm khi cho rằng Kinh A-hàm Phật thuyết là “Tiểu thừa.” Vì thế dùng Kinh A-hàm bài xích tà giáo dựa vào Kinh
Đại thừa mà càng biến dị thêm thường chẳng khác gì đàn gảy tai trâu.
Hơn nữa, dập bẻ tà thuyết và cứu vớt chúng sinh thoát ly tà giáo, như cứu
lửa lụt, phải gấp gáp lắm, không thể chần chừ, đều là chuyện phải làm cấp bách
vì tín đồ tà giáo sẽ đọa địa ngục Vô Gián, không thể cứu vớt chúng sinh khỏi chịu
Vô Gián, nên việc làm này trọng đại lắm. Vì vậy phải cứu vớt nhanh hơn, nhiều
hơn và hữu hiệu hơn như mẹ hữu tình thoát ly tà giáo khỏi đọa Vô Gián, sự tai hại
sẽ giảm nhẹ, Bi Trí không chỉ hết sức mình uốn nắn bản thân Tượng Pháp biến dạng
mà còn phải tùy thuận một cách độ lượng nhằm mục đích dẫn người thoát ly tà
giáo. Nếu không như vậy mà trực tiếp dùng Chính Pháp của Phật bài phá Tượng
Pháp tương tự thì không thể nào phá được tà thuyết biến đổi thêm dựa theo Tượng
Pháp một cách có chủ ý, ngược lại còn khiến cho tất cả tín đồ các tà giáo tương
quan với Tượng Pháp “Đại thừa” liên thủ lại thóa mạ và sỉ vả Bi Trí là một kẻ
“phản Đại thừa.”
Tuy nhiên, dập bẻ tà thuyết và dẫn dắt các hữu tình thoát ly tà giáo thì
phải phá cái tà trọng yếu nhất, là bước đầu tiên cấp bách nhất, sau đó rộng xây
Chính Pháp, hiển dương Thánh giáo, để dẫn dắt người hữu duyên trong ngàn vạn kẻ
chuyển hóa hiểu rõ Chính pháp Nguyên thủy của Phật, mãi xa lìa tà giáo. Vì vậy
ngày thứ nhất dựng đàn từ luận đàn Thiên Giám, chuyên môn thiết lập chuyên mục Như thật tri kiến và nhóm QQ vì Chính pháp
Nguyên thủy. Nhiều năm nay, có những kẻ chuyển hóa tà giáo không trong sạch nhờ
lời nói này hiểu được và tiến vào Chính Pháp, lại có ngàn vạn người chuyển hóa
ra khỏi hang ổ của tà giáo này lại sa vào hầm hố tà giáo khác, xoay vần giữa
các tà giáo.
Xét tận lý do, muôn ngàn tà giáo chỉ là cành lá của sự dị hóa, Tượng
Pháp biến dạng mới là môi trường và nguồn cội cho các thứ tà giáo nảy nở. Vì vậy
chỉ cần nhắm vào có mục đích phá trừ các tà giáo và triệt luôn nguồn của nó mặc
dù có thể giúp đỡ trực tiếp cho người bị đọa vào tà giáo đó nhưng tùy theo thời
gian hoàn cảnh, tà thuyết ngụy Đại thừa sẽ vẫn không ngừng sinh ra muôn ngàn tà
giáo biến dị.
Chỉ có bậc trọn đủ Chính kiến mới có thể minh biện chính tà, chân ngụy
và thiện ác.
Tỉ như:
“Nếu người nào thấy
tà kiến là tà kiến thì đó là Chính kiến. Nếu người nào thấy Chính kiến là Chính
kiến cũng gọi là Chính kiến.” (Kinh Trung
A-hàm)[14]
Vì vậy, để cho quảng đại chúng sinh hôm nay và đương lai có thể dùng Chính kiến nhận rõ Tượng Pháp biến dạng, từ đó có thể tự luận hiểu các loại tà giáo được nảy sinh từ Tượng Pháp biến dạng, không lâm vào bi kịch ra hang cọp này lọt ổ sói khác nữa, Bi Trí không dám tự kiêu giỏi hơn thiên hạ đã dẫn chứng Kinh ngụy Đại thừa để dập tà và phá bỏ Kinh ngụy Đại thừa để hiển Chính, tức là trực tiếp theo Chính Pháp nguyên thủy Kinh A-hàm, có lý có cứ, y pháp y luật, nhắm vào bài xích lần lượt các Kinh ngụy Đại thừa một cách có hệ thống để mong sạch nguồn cội Chính. Nếu để ngụy kinh lan tràn, tà sư hoành hành thế gian thì trong muôn ngàn tiếng phỉ báng và nguyền rủa, dù chỉ có một người chịu bỏ tà quy chính về với Chính Pháp nguyên thủy thì tôi cũng cam lòng.
Quyển sách này chỉ được viết để bài phá ngụy bảo Kinh Lăng-nghiêm Tượng Pháp, nhưng ngụy kinh, tà luật và giả luận còn nhiều như sương sớm, những ngụy thuyết biến đổi cũng vì khuôn khổ sách xuất bản có hạn cũng như để tiện lợi nên nhiều nội dung quý vị có thể tải sách điện tử PDF miễn phí. Ngoài ra còn có nhiều nhân duyên nữa chưa thể nói đến tận chân tướng nhiều hơn, đành phải đợi khi chín duyên, tạm không bàn nữa.
Bi Trí.
Trường Xuân, mùa hạ
năm Giáp Ngọ (2014).
[1]
Ma-ha Tăng-kì Luật quyển 32.
[2]
“Kinh A-hàm” được tác giả sử dụng ở đây chỉ cho hệ Āgama (A-hàm) bản Hán dịch
và hệ Nikāya (Ni-kha-da) nguyên bản Pāḷi.
[3]
Tỳ-khưu-ni Bát Kính Pháp, Tỳ-khưu-ni Kiền-độ q. 17, Kinh Trung A-hàm q. 28, Phật thuyết Cù-đàm-di Ký Quả Kinh đều có
ghi.
[4]
Số 116: Cù-đàm-di kinh, Trung A-hàm
quyển 28.
[5]
Kinh số 906, Tạp A-hàm quyển 32.
[6]
Trường Bộ, Kinh Cứu-la-đàn-đầu (Kūṭadantasutta)
số 5, đoạn số 29, Hán dịch Nam Truyền Đại Tạng Kinh, chùa Nguyên Hanh.
[7]
Xá-lê Tử Tương Ưng phẩm: Tượng Tích Dụ
kinh số 30, Trung A-hàm quyển 7.
[8]
Số 769. Bà-la-môn, Tạp A-hàm quyển 28.
[9]
Kinh số 968, Tạp A-hàm quyển 34.
[10]
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tì-nại-da
Phá Tăng Sự quyển 5.
[11]
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tì-nại-da
Tạp Sự quyển 36.
[12]
Tăng Chi Bộ, Mười Tập (Dasakanipāta): năm mươi bài kinh lần hai, 93. Kiến, phẩm
10. Ưu-bà-tắc, Hán dịch Nam Truyền Đại Tạng Kinh, chùa Nguyên Hanh.
[13]
Như trên.
[14]
Số 189. Thánh Đạo kinh, Song phẩm,
Trung A-hàm quyển 49.
Nhận xét
Đăng nhận xét