Chính trị (tiếng Hy-lạp gọi là
Πολιτικά [politiká], nghĩa “các sự vụ của thành thị”) là một loạt
các hoạt động liên quan đến các quyết định trong một nhóm hoặc các hình thức
khác của mối quan hệ quyền lực giữa các cá nhân, chẳng hạn như phân bổ tài
nguyên hoặc địa vị. Các nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu về chính trị và
chính phủ được gọi là chính trị học.
Nó có thể được sử dụng tích cực
trong các “giải pháp chính trị” mang tính thỏa hiệp và phi bạo lực [1] hoặc được
mô tả là “mưu thuật hoặc khoa học của chính phủ”, nhưng cũng thường mang một nội
dung tiêu cực. [2] Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, với các cách
tiếp cận khác nhau có quan điểm cơ bản khác nhau về việc nó nên được sử dụng rộng
rãi hoặc hạn chế, sử dụng kinh nghiệm hoặc tiêu chuẩn, và xung đột hoặc hợp tác
là quan trọng hơn đối với nó.
Các phương pháp khác nhau đã được sử dụng
trong chính trị, bao gồm tuyên truyền quan điểm chính trị của họ trong nhân
dân, đàm phán với các chủ thể chính trị khác, ban hành luật pháp, và sử dụng vũ
lực, bao gồm cả chống lại các đối thủ. [3] Chính trị được thực hiện trên một phạm
vi xã hội rộng lớn, từ các gia tộc, bộ tộc trong xã hội truyền thống, thông qua
các chính quyền, tập đoàn, thể chế hiện đại của các quốc gia có chủ quyền, đến
cấp độ quốc tế.
Trong các quốc gia dân tộc hiện
đại, người ta thường thành lập các đảng chính trị để đại diện cho ý tưởng của
mình. Các thành viên của một đảng có xu hướng đồng ý cùng lập trường về nhiều vấn
đề và đồng ý ủng hộ những thay đổi tương tự về luật pháp và lãnh đạo. Các cuộc
bầu cử thường là cuộc cạnh tranh giữa các đảng khác nhau.
Hệ thống chính trị là khuôn khổ
để xác định các phương pháp chính trị có thể chấp nhận được trong xã hội. Lịch sử tư tưởng chính trị bắt đầu từ thời cổ
đại, với các tác phẩm tiên phong như Cộng hoà (Republic) của
Plato và Chính trị học (Politics) của Aristotle ở phương Tây, và các
bản viết tay chính trị của Khổng Tử và Thực lợi luận (Arthaśāstra)
của Chanakya ở phương Đông. [4]
Trong tiếng Anh, chính trị là politics,
bắt nguồn từ tác phẩm kinh điển Chính trị học (Politiká) của
Aristotle, vào giữa thế kỷ 15, các sáng tác của Aristotle đã được dịch thành tiếng
Anh cận đại là Polettiques [5] và sang tiếng Anh hiện đại là Politics.
Harold Lasswell: “Ai nhận được
cái gì, khi nào và làm thế nào” [6]
David Easton: “Sự phân phối có
thẩm quyền các giá trị của một xã hội” [7]
Vladimir Lenin: “Hiệu suất tập
trung nhất của kinh tế” [8]
Bernard Crick: “Một hình thức
duy nhất của các quy tắc, nơi mọi người hành động cùng nhau thông qua các thủ tục
được thể chế hóa để giải quyết các khác biệt” [9]
Adrian Leftwich: “Tất cả các
hoạt động bao gồm hợp tác, đàm phán và xung đột trong và giữa các xã hội” [10].
1.
Các phương pháp tiếp cận
Có một số cách để đưa ra khái
niệm gần gũi về chính trị.
Nghĩa rộng và
nghĩa hẹp: Adrian Leftwich có quan điểm khác nhau về chính trị
tùy thuộc vào mức độ rộng lớn hoặc hạn chế của nhận thức của họ về cái gọi là “chính
trị”. [11] Nhận thức nghĩa rộng cho rằng chính trị tồn tại trong toàn bộ lĩnh vực
quan hệ xã hội của con người, trong khi nhận thức nghĩa hẹp giới hạn chính trị
trong một số bối cảnh nhất định. Ví dụ, theo một cách chặt chẽ hơn, chính trị
có thể được coi là chủ yếu liên quan đến quản trị, [12] và quan điểm nữ quyền
có thể lập luận rằng những nơi truyền thống được coi là phi chính trị cũng thực
sự nên được coi là chính trị. [13] Lập trường thứ hai được khái quát trong khẩu
hiệu “Cá nhân là chính trị”, trong đó đặt ra câu hỏi về sự khác biệt giữa vấn đề
riêng và vấn đề chung. Như Robert A. Dahl đã nói, chính trị cũng có thể được định
nghĩa bằng việc sử dụng quyền lực. [14]
Đạo đức luận
và Duy thực luận: Một số quan điểm về chính trị coi đó
là một sự thực hiện quyền lực theo kinh nghiệm, trong khi những quan điểm khác
coi đó là một chức năng xã hội có cơ sở chuẩn mực. [15] Sự phân biệt này được gọi
là phân biệt giữa chủ nghĩa đạo đức chính trị và chủ nghĩa hiện thực chính trị.
Đối với các nhà đạo đức học, chính trị gắn chặt với đạo đức, ở trạng thái cực
đoan trong tư tưởng không tưởng. [16] Ví dụ, theo Hannah Arendt, quan điểm của
Aristotle là “trở thành chính trị… có nghĩa là mọi thứ được quyết định bằng lời
nói và thuyết phục chứ không phải bằng bạo lực”; [17] và theo Bernard Crick: “Chính
trị là phương thức điều hành một xã hội tự do. Chính trị là chính trị, các hình
thức cai trị khác lại là một câu chuyện khác.” [18] Ngược lại, đối với những
người theo Duy thực luận, đại diện là Nicolò Machiavelli, Thomas Hobbs và
Harold Lasswell, chính trị dựa trên việc sử dụng quyền lực mà không quan tâm đến
mục đích theo đuổi. [19]
Xung đột và hợp
tác: Thuyết Kích động cho rằng chính trị về cơ bản là xung
đột giữa các lợi ích xung đột. Theo nhà khoa học chính trị Elmer
Schattschneider: “Gốc rễ của mọi chính trị là ngôn ngữ chung của xung đột” [20]
và đối với Carl Schmidt, bản chất của chính trị là sự khác biệt giữa 'bạn bè'
và kẻ thù. [21] Điều này trái ngược trực tiếp với quan điểm hợp tác hơn của
Aristotle và Crick về chính trị. Tuy nhiên, nhà khoa học chính trị người
Ireland Michael Laver lại đưa ra một cái nhìn hỗn hợp hơn giữa những thái cực
này khi chỉ ra rằng:
Chính
trị là sự hội tụ đặc trưng của xung đột và hợp tác, thường có thể được tìm thấy
trong các tương tác của con người. Xung đột thuần túy là chiến tranh. Hợp tác
thuần túy mới là tình yêu đích thực. Chính trị là sự pha trộn của cả hai.
[22]
2. Lịch
sử
Lịch sử chính trị trải dài
trong lịch sử nhân loại và không giới hạn trong các cơ quan chính phủ hiện đại.
· Thời
tiền sử
Frans de Waal lập luận rằng
tinh tinh đảm bảo và duy trì vị trí có ảnh hưởng thông qua “thao túng xã hội” [23]
thiếu một cấu trúc chính trị tập trung cho các hình thức tổ chức xã hội đầu
tiên của loài người, bè phái và bộ lạc. [24] Đây đôi khi được gọi là xã hội
không quốc tịch.
· Các
nhà nước sơ kỳ
Trong lịch sử cổ đại, các nền
văn minh không có ranh giới rõ ràng như các quốc gia ngày nay, biên giới của họ
có thể được mô tả chính xác hơn là biên cảnh. Triều đại Sumer đầu tiên và triều
đại Ai-cập đầu tiên là những nền văn minh đầu tiên xác định biên giới. Hơn nữa,
cho đến thế kỷ 12, nhiều người sống trong các xã hội phi nhà nước. Chúng bao gồm
từ các bè nhóm và bộ lạc tương đối bình đẳng đến các lãnh thổ phức tạp và phân
tầng cao.
Triết
gia Hy-lạp Aristotle chỉ trích nhiều ý tưởng của Plato là không thực tế, nhưng
giống như Plato, ông ngưỡng mộ sự cân bằng và điều độ, và nhắm đến các thành phố
hài hòa dưới pháp trị.
· Hình
thành nhà nước
Có nhiều lý thuyết và giả định
khác nhau về sự hình thành nhà nước sơ kỳ, tìm cách khái quát hóa để giải thích
tại sao nhà nước phát triển ở một số nơi nhưng không phát triển ở một số nơi
khác. Các học giả khác cho rằng khái quát hóa là không hữu ích, và mỗi tình huống
hình thành nhà nước sơ kỳ nên được xử lý riêng. [25]
Lý thuyết tự nguyện cho rằng
do một lợi ích hợp lý chung nào đó, các nhóm dân cư khác nhau đã tập hợp lại với
nhau để hình thành các quốc gia. [26] Các lý thuyết này chủ yếu tập trung vào sự
phát triển của nông nghiệp, cũng như áp lực về nhân khẩu học và tổ chức đi kèm
và dẫn đến sự hình thành các quốc gia. Một trong những lý thuyết nổi bật nhất về
sự hình thành các nhà nước sơ kỳ và đầu tiên là giả thuyết thủy lực, trong đó
cho rằng trạng thái là kết quả của sự cần thiết phải xây dựng và duy trì các
công trình thủy lợi quy mô lớn.
Lý thuyết xung đột hình thành nhà nước cho rằng
xung đột và sự thống trị của một số dân số đối với một dân số khác là chìa khóa
cho sự hình thành nhà nước. Trái ngược với lý thuyết tự nguyện, các lập luận
này cho rằng thay vì tự nguyện đồng ý thành lập một nhà nước để tối đa hóa lợi
ích, con người lại là một nhà nước hình thành do một số hình thức áp bức của
nhóm này đối với nhóm khác. Một số giả thuyết lần lượt cho rằng chiến tranh là
quan trọng đối với sự hình thành của các quốc gia.
· Lịch
sử cổ đại
Các nhà nước đầu tiên của triều
đại Sumer và các nhà nước đầu tiên của triều đại Ai-cập, lần lượt bắt nguồn từ
thời kỳ Uruk và thời kỳ tiền Ai-cập vào khoảng năm 3000 TCN. [27] Các triều đại
Ai-cập đầu tiên dựa trên sông Nile ở Đông Bắc châu Phi, với biên giới của vương
quốc kéo dài đến khu vực có các ốc đảo. [28] Triều đại Sumer đầu tiên nằm ở
phía nam Lưỡng Hà với biên giới kéo dài từ vịnh Ba-tư đến một phần của sông
Euphrates và Tigris.
Người Ai-cập, La-mã và Hy-lạp
là những người đầu tiên được biết đến đã phát triển một cách rõ ràng triết lý
chính trị quốc gia và phân tích hệ thống chính trị một cách hợp lý. Trước đó,
Nhà nước được mô tả và chứng minh bằng thần thoại tôn giáo. [29]
Một số cải tiến chính trị quan
trọng trong thời cổ đại cổ điển đến từ các thành bang Hy-lạp (polis) và
Cộng hòa La-mã. Các thành bang Hy-lạp trước thế kỷ thứ 4 đã trao cho họ quyền
công dân tự do về dân số; Ở Athens, các quyền này được kết hợp với một hình thức
chính phủ dân chủ trực tiếp, sẽ có một thế giới bên kia dài về tư tưởng chính
trị và lịch sử.
· Các
nhà nước hiện đại
Hòa ước Westphalia (1648) được
các nhà khoa học chính trị coi là sự khởi đầu của một hệ thống quốc tế các nhà
nước hiện đại. [30] trong đó các thế lực bên ngoài nên tránh can thiệp vào công
việc nội bộ của các quốc gia khác. [31] Nguyên tắc không can thiệp vào công việc
nội bộ của nước khác do luật gia người Thụy-sĩ Emer de Vattel đề xuất vào giữa
thế kỷ 18. [32] Nhà nước trở thành thể chế chính trong hệ thống quan hệ giữa
các quốc gia. Hiệp ước Hòa bình Westphalia được cho là đã chấm dứt nỗ lực áp đặt
quyền lực siêu quốc gia lên các nước châu Âu. Sự trỗi dậy của tư tưởng dân tộc
chủ nghĩa trong thế kỷ 19 đã hỗ trợ học thuyết “Westphalian”, trong đó nhà nước
là tác nhân độc lập, theo đó nhà nước hợp pháp được coi là tương ứng với các
dân tộc—các nhóm dân tộc thống nhất bằng ngôn ngữ và văn hóa.
Ở châu Âu thế kỷ 18, các quốc gia phi dân tộc
điển hình là các đế quốc đa dân tộc: Đế quốc Áo, Vương quốc Pháp, Vương quốc
Hungary [33], Đế quốc Nga, Đế quốc Tây-ban-nha, Đế quốc Ottoman và Đế quốc Anh.
Các đế chế như vậy cũng tồn tại ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ; trong thế giới Hồi
giáo, các đế chế khilāfah được thành lập ngay sau cái chết của Muhammad
vào năm 632, phát triển thành các đế chế đa sắc tộc. [34] Đế quốc đa sắc tộc là
chế độ quân chủ tuyệt đối do quốc vương, hoàng đế hoặc Sultan cai trị. Dân số
thuộc nhiều dân tộc, họ nói nhiều ngôn ngữ. Đế quốc được cai trị bởi một dân tộc,
ngôn ngữ của họ thường là ngôn ngữ của chính quyền công. Triều đại cai trị thường
là, nhưng không phải luôn luôn, từ nhóm này. Một số quốc gia châu Âu nhỏ hơn ít
đa dạng về chủng tộc hơn, nhưng cũng là các quốc gia triều đại và được cai trị
bởi hoàng gia. Một số quốc gia nhỏ hơn tồn tại, chẳng hạn như Liechtenstein độc
lập, Andorra, Monaco và Cộng hòa San Marino.
Hầu hết các lý thuyết cho rằng
quốc gia dân tộc là một hiện tượng ở châu Âu trong thế kỷ 19, được thúc đẩy bởi
sự phát triển của giáo dục ủy quyền nhà nước, giáo dục đại chúng và phương tiện
thông tin đại chúng. Tuy nhiên, các nhà sử học cũng chú ý đến sự xuất hiện sớm
của các quốc gia tương đối thống nhất và bản sắc của các nước Cộng hòa Bồ-đào-nha
và Hà-lan. [35] Các học giả như Steven Webb, David Woodward, Michelle Foucault
và Jeremy Blake đã đưa ra giả thuyết rằng các quốc gia dân tộc không xuất phát
từ sự khéo léo chính trị hay nguồn gốc chưa được biết đến, cũng không phải là
ngẫu nhiên từ những phát minh lịch sử hay chính trị. [36] Trái lại, các quốc
gia dân tộc là sản phẩm phụ không chủ ý của những khám phá trí tuệ của kinh tế
chính trị, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa trọng thương, địa lý chính trị và địa lý
[37] kết hợp với những tiến bộ trong vẽ bản đồ [38] và công nghệ làm bản đồ
trong thế kỷ 15. [39]
Tiếp
cận cử tri nữ (1935)
Một số nhà nước như Đức và Ý
ít nhất một phần là kết quả của các phong trào chính trị của những người theo
chủ nghĩa dân tộc trong thế kỷ 19. Trong cả hai trường hợp, lãnh thổ trước đây
được chia cho các quốc gia khác, trong đó có một số rất nhỏ. Tư tưởng tự do về
thương mại tự do đóng một vai trò trong việc thống nhất nước Đức, liên quan đến
liên minh thuế, Liên minh Hải quan, trước khi thống nhất nước Đức. Quyền tự quyết
dân tộc là một khía cạnh quan trọng trong 14 điểm của Tổng thống Mỹ Woodrow
Wilson, dẫn đến sự tan rã của Đế quốc Áo–Hung và Ottoman sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất, trong khi Đế quốc Nga trở thành Liên Xô sau Nội chiến Nga. Việc phi
thực dân hóa dẫn đến việc thành lập các quốc gia dân tộc mới ở thế giới thứ ba,
thay thế các đế quốc đa quốc gia.
· Toàn
cầu hoá
Toàn cầu hóa chính trị bắt đầu
trong thế kỷ 20, thông qua các tổ chức liên chính phủ và liên minh siêu quốc
gia. Hội Quốc Liên được thành lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và được
thay thế bởi Liên Hiệp Quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Qua đó các hiệp ước
quốc tế khác nhau được ký kết. Liên minh châu Phi, ASEAN, Liên minh châu Âu và
Mercosur (Cộng đồng Thị trường Nam Mỹ) đã và đang theo đuổi hội nhập khu vực.
Các thể chế chính trị quốc tế ở cấp độ quốc tế bao gồm Tòa án Hình sự Quốc tế,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Thương mại Thế giới.
3.
Chính trị học
Nghiên cứu về chính trị được gọi
là khoa học chính trị hay chính trị học. Nó bao gồm nhiều tiểu
lĩnh vực, bao gồm khoa học chính trị so sánh, kinh tế chính trị, quan hệ quốc tế,
triết học chính trị, hành chính công, chính sách công, giới và chính trị và
phương pháp luận chính trị. Ngoài ra, khoa học chính trị có liên quan đến các
lĩnh vực kinh tế, luật, xã hội học, lịch sử, triết học, địa lý, tâm lý học/tâm
thần học, nhân chủng học và khoa học thần kinh và vay mượn từ các lĩnh vực này.
Plato
(trái) và Aristotle (phải), các chi tiết từ trường phái Athens, một bức tranh
tường của Raphael. “Cộng hòa” của Plato và “Chính trị học” của Aristotle đã bảo
đảm hai triết gia Hy-lạp là hai trong số những triết gia chính trị có ảnh hưởng
nhất.
Chính trị học so sánh là khoa
học so sánh và giảng dạy các loại hiến pháp, các chủ thể chính trị, các cơ quan
lập pháp và các lĩnh vực liên quan khác nhau. Quan hệ quốc tế liên quan đến sự
tương tác giữa các quốc gia dân tộc và giữa các tổ chức liên chính phủ và các tổ
chức xuyên quốc gia. Triết học chính trị tập trung nhiều hơn vào những đóng góp
của các nhà tư tưởng và triết học khác nhau, cả cổ điển và đương đại.
Chính trị học đa dạng về
phương pháp và tiếp thu nhiều phương pháp có nguồn gốc từ tâm lý học, nghiên cứu
xã hội và khoa học thần kinh nhận thức. Các phương pháp bao gồm chủ nghĩa thực
chứng, chủ nghĩa giải thích, lý thuyết lựa chọn hợp lý, chủ nghĩa hành vi, chủ
nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hậu cấu trúc, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa thể chế
và chủ nghĩa đa nguyên. Là một trong những ngành khoa học xã hội, chính trị học
sử dụng các phương pháp và kỹ thuật liên quan đến loại hình điều tra được tìm
kiếm: các nguồn chính như tài liệu lịch sử và hồ sơ chính thức, các nguồn phụ
như các bài báo trên tạp chí học thuật, nghiên cứu điều tra, phân tích thống
kê, nghiên cứu tình huống, nghiên cứu thực nghiệm và xây dựng mô hình.
4. Hệ thống
chính trị
Hệ thống chính trị quy định
quy trình để Chính phủ ra quyết định chính thức. Nó thường được so sánh với hệ
thống pháp luật, hệ thống kinh tế, hệ thống văn hóa và các hệ thống xã hội
khác. Theo David Easton: “Một hệ thống chính trị có thể được chỉ định là sự
tương tác của các giá trị được phân bổ một cách có thẩm quyền cho một xã hội.”
[40] Mỗi hệ thống chính trị được nhúng vào một xã hội với văn hóa chính trị
riêng, đến lượt họ định hình xã hội của mình thông qua các chính sách công. Sự
tương tác giữa các hệ thống chính trị khác nhau là nền tảng của chính trị toàn
cầu.
Hình thức của chính phủ có thể
được chia thành nhiều cách. Về cơ cấu quyền lực, có chế độ quân chủ (bao gồm chế
độ quân chủ lập hiến) và chế độ cộng hòa (thường là chế độ tổng thống, bán tổng
thống hoặc nghị viện).
Tính
đến năm 2022, bản đồ các quốc gia châu Âu dựa trên tỷ lệ phiếu bầu mà đảng cầm
quyền nhận được trong cuộc bầu cử vừa qua.
Sự phân chia quyền lực mô tả mức
độ hợp nhất theo chiều ngang giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và
các cơ quan độc lập khác.
Nguồn gốc của quyền lực quyết
định sự khác biệt giữa dân chủ, đầu sỏ và độc tài.
Trong một nền dân chủ, tính hợp
pháp chính trị dựa trên chủ quyền của nhân dân. Các hình thức dân chủ bao gồm
dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và dân chủ phi chính phủ. Những điều này được
tách ra từ cách thức quyết định, cho dù đó là đại biểu dân cử, trưng cầu ý dân,
cho dù đó là hội đồng công dân. Nền dân chủ có thể là một nền cộng hòa hoặc một
chế độ quân chủ lập hiến.
Chính trị gia đầu sỏ là một cấu
trúc quyền lực do một thiểu số cai trị. Chúng có thể xuất hiện dưới hình thức
chủ nghĩa vô chính phủ, chính trị quý tộc, nhân quyền, chính trị thiên tài,
chính trị của người già, chính trị ác nhân, chế độ đạo tặc, tinh hoa, thanh trừng,
quý tộc, công nghệ, thần quyền, hoặc chính trị hoàng gia.
Các chế độ chuyên chế là chính thể độc
tài (bao gồm cả chế độ độc tài quân sự) hoặc chế độ quân chủ chuyên chế.
Tùy thuộc vào mức độ hội nhập theo
chiều dọc, hệ thống chính trị có thể được chia thành (từ hội nhập nhỏ nhất đến
lớn nhất) liên minh, liên bang và các quốc gia đơn nhất.
Liên bang (hay còn gọi là nhà nước liên bang) là một thực thể chính trị được đặc trưng bởi một liên minh các tỉnh, tiểu bang hoặc các khu vực khác tự trị một phần theo chính phủ liên bang trung ương (liên bang). Trong một liên bang, tình trạng tự trị của các tiểu bang cấu thành và sự phân chia quyền lực giữa các tiểu bang này và chính quyền trung ương thường được thiết lập theo hiến pháp và không được thay đổi do quyết định đơn phương của bất kỳ bên nào, các tiểu bang hoặc các thể chế chính trị liên bang. Liên đoàn được thành lập lần đầu tiên ở Thụy-sĩ, Hoa Kỳ năm 1776, Canada năm 1867, Đức năm 1871 và Úc năm 1901. Chế độ bang liên có ít quyền lực tập trung hơn so với Liên bang.
Tất cả các hình thức chính phủ
trên là một biến thể của cùng một chính thể cơ bản, một quốc gia có chủ quyền.
Max Weber định nghĩa nhà nước là một thực thể chính trị độc quyền bạo lực trên
lãnh thổ của mình, trong khi Công ước Montevideo cho rằng nhà nước cần phải có
lãnh thổ rõ ràng; nhân khẩu thường trú; một chính quyền; và khả năng tham gia
quan hệ quốc tế.
Xã hội không quốc tịch là xã hội
không chịu sự chi phối của nhà nước. [41] Trong xã hội không quốc tịch, quyền lực
ít được tập trung; hầu hết các chức vụ có thẩm quyền thực sự tồn tại đều có quyền
hạn rất hạn chế và thường không phải là chức vụ được giữ vĩnh viễn; các thể chế
xã hội giải quyết tranh chấp thông qua các quy tắc được xác định trước thường rất
nhỏ. [42] Xã hội không quốc tịch có nhiều thay đổi về tổ chức kinh tế và tập
quán văn hóa. [43]
Mặc dù xã hội không quốc tịch là tiêu chuẩn
trong thời tiền sử của loài người, nhưng ngày nay rất ít xã hội không quốc tịch
tồn tại; Gần như toàn bộ dân số toàn cầu sống dưới quyền tài phán của một quốc
gia có chủ quyền. Ở một số khu vực, chính quyền nhà nước trên danh nghĩa có thể
rất yếu và có ít hoặc không có quyền lực thực sự. Trong tiến trình lịch sử, hầu hết những người không quốc tịch đã hòa nhập vào xã hội dựa trên nhà nước xung quanh họ. [44]
Một số triết lý chính trị cho
rằng nhà nước là không mong muốn, và do đó cho rằng việc thành lập một xã hội
không quốc tịch là một mục tiêu cần phải đạt được. Một nguyên tắc trung tâm của chủ nghĩa vô
chính phủ là ủng hộ một xã hội không có nhà nước. [45] Các kiểu xã hội được tìm
kiếm giữa các trường phái tư tưởng vô chính phủ rất khác nhau, từ chủ nghĩa cá
nhân cực đoan đến chủ nghĩa tập thể hoàn toàn. [46] Trong chủ nghĩa Marx, học
thuyết nhà nước của K. Marx cho rằng, trong xã hội hậu tư bản, chế độ không được
lòng dân là nhà nước sẽ không cần thiết và sẽ dần lụi tàn. [47] Một khái niệm
có liên quan là chủ nghĩa cộng sản không quốc tịch, cụm từ này đôi khi được
dùng để mô tả xã hội hậu tư bản chủ nghĩa mà Marx dự kiến.
Cơ
quan lập pháp là một thể chế chính trị quan trọng. Trong ảnh là Quốc hội Phần-lan.
Hiến pháp là văn bản quy định
rõ ràng và hạn chế quyền hạn của các cơ quan khác nhau trong Chính phủ. Mặc dù
Hiến pháp là văn bản thành văn, nhưng cũng có những hiến pháp bất thành văn. Hiến
pháp bất thành văn liên tục được viết bởi các nhánh lập pháp và tư pháp của
chính phủ; đây chỉ là một trong những ví dụ cho thấy bản chất của tình hình quyết
định hình thức chính quyền phù hợp nhất. Anh thực sự đã thiết lập cách thức hiến
pháp thành văn trong cuộc nội chiến, nhưng đã từ bỏ nó sau khi phục hồi, và sau
đó thông qua nó sau khi giải phóng các thuộc địa ở châu Mỹ, và sau đó là Pháp
và các nơi khác ở châu Âu, bao gồm các thuộc địa châu Âu, sau cuộc cách mạng.
Hiến pháp thường quy định sự
phân chia quyền lực, phân chia chính phủ thành hành pháp, lập pháp và tư pháp
(gọi chung là tam quyền phân lập) để đạt được sự đối trọng trong nội bộ quốc
gia. Các chi nhánh độc lập khác cũng có thể được thành lập, bao gồm Hội đồng
Công chức, Ủy ban Bầu cử và Cơ quan Kiểm toán Tối cao.
Văn hóa chính trị mô tả văn
hóa ảnh hưởng đến chính trị như thế nào. Mỗi hệ thống chính trị đều bắt nguồn từ
một nền văn hóa chính trị cụ thể. Định nghĩa của Lucian Pye là: “Văn hóa chính
trị là một tập hợp các thái độ, niềm tin và cảm xúc cung cấp trật tự và ý nghĩa
cho các quá trình chính trị và đưa ra các giả định và quy tắc cơ bản chi phối
hành vi trong hệ thống chính trị.” [48]
Niềm tin là một yếu tố chính
trong văn hóa chính trị, vì mức độ tin cậy quyết định khả năng vận hành của nhà
nước. Chủ nghĩa Hậu vật chất đề cập đến mức độ mà văn hóa chính trị tập trung vào những vấn
đề không liên quan đến vật chất hay vật chất, như quyền con người và bảo vệ môi
trường. Tôn giáo cũng có ảnh hưởng đến văn hóa chính trị. [49]
Tham nhũng chính trị là hành
vi sử dụng quyền lực của các quan chức chính phủ hoặc mạng lưới của họ vì lợi
ích cá nhân không chính đáng. Các hình thức tham nhũng chính trị bao gồm hối lộ,
chủ nghĩa thân hữu, gia đình trị và tị nạn chính trị. Đến lượt mình, các hình
thức tài trợ chính trị bao gồm chủ nghĩa thị tòng, đặc quyền đặc biệt, chính trị rổ thịt, quỹ đen và hệ thống phân chia tài sản tham nhũng; cũng như bộ máy
chính trị, hệ thống chính trị hoạt động vì mục đích tham nhũng.
Khi tham nhũng được nhúng vào
văn hóa chính trị, điều này có thể được gọi là chủ nghĩa gia sản thế tập hoặc chủ
nghĩa thế tập mới. Một hình thức chính phủ được xây dựng trên nền tảng tham
nhũng được gọi là “kleptocracy” (chế độ đạo tặc).
5.
Trình độ chính trị
* Chính trị
vĩ mô:
Chính trị vĩ mô có thể mô tả
các vấn đề chính trị ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống chính trị (ví dụ như quốc
gia dân tộc) hoặc đề cập đến sự tương tác giữa các hệ thống chính trị (ví dụ
như quan hệ quốc tế).
Chính trị toàn cầu (hay chính
trị thế giới) bao gồm tất cả các khía cạnh của chính trị ảnh hưởng đến nhiều hệ
thống chính trị khác nhau và thực sự đề cập đến bất kỳ hiện tượng chính trị nào
vượt qua biên giới quốc gia. Điều này có thể bao gồm các thành phố, các quốc
gia, các tập đoàn đa quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và/hoặc các tổ chức quốc
tế. Một yếu tố quan trọng là quan hệ quốc tế: Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc
có thể hòa bình hoặc bạo lực khi tiến hành thông qua ngoại giao, được mô tả là
chiến tranh. Các quốc gia có khả năng gây ảnh hưởng quốc tế mạnh mẽ được gọi là
siêu cường, trong khi các quốc gia yếu hơn có thể được gọi là các cường quốc
khu vực hoặc trung bình. Hệ thống quyền
lực quốc tế được gọi là trật tự thế giới, và nó bị ảnh hưởng bởi sự cân bằng
quyền lực xác định mức độ phân cực trong hệ thống. Các cường quốc mới nổi có thể
gây bất ổn cho nó, đặc biệt nếu họ thể hiện chủ nghĩa báo thù hoặc chủ nghĩa
thu phục lãnh thổ.
* Nền chính
trị trung gian:
Chính trị trung gian mô tả
chính trị của cấu trúc trung gian trong hệ thống chính trị, chẳng hạn như các đảng
hoặc phong trào quốc gia.
Các đảng chính trị là một tổ
chức chính trị thường tìm cách đạt được và duy trì quyền lực chính trị trong
chính phủ bằng cách tham gia vào các chiến dịch chính trị, tuyên truyền giáo dục
hoặc biểu tình. Các đảng phái chính trị thường ủng hộ một hệ tư tưởng hoặc tầm
nhìn rõ ràng và được hỗ trợ bởi các chương trình bằng văn bản với các mục tiêu
cụ thể để tạo thành một liên minh giữa các lợi ích khác nhau.
Các chính đảng trong một hệ thống
chính trị cụ thể cùng nhau tạo thành một hệ thống chính đảng, tùy thuộc vào mức
độ đa dạng, có thể là đa đảng, hai đảng, một đảng hoặc độc đảng. Điều này bị ảnh
hưởng bởi các đặc điểm của hệ thống chính trị, trong đó có hệ thống bầu cử. Theo định luật Duverge, một hệ thống mà người
được bầu nhiều nhất có thể dẫn đến một hệ thống lưỡng đảng, trong khi một hệ thống
đại diện theo tỷ lệ có nhiều khả năng tạo ra một hệ thống đa đảng.
Chính trị trong phạm vi hệ thống
chính trị, tương ứng với biên giới quốc gia trong bối cảnh đương đại, được gọi
là chính trị nội bộ. Điều này bao gồm hầu hết các hình thức chính sách công, chẳng
hạn như chính sách xã hội, chính sách kinh tế hoặc thực thi pháp luật, được thực
hiện bởi bộ máy hành chính nhà nước.
* Chính trị
vi mô:
Chính trị vi mô mô tả hành động
của các nhân tố cá nhân trong hệ thống chính trị. [50] Điều này thường được mô
tả là can dự chính trị. [51] Tham gia chính trị có thể có nhiều hình thức, bao
gồm:
§
Chủ nghĩa hành động
§
Tẩy chay
§
Bất tuân dân sự
§
Biểu tình chính trị
§
Thỉnh nguyện
§
Nhóm gác đình công
§
Hành động đình công
§
Chống thuế
§
Bỏ phiếu (hoặc ngược lại, bỏ phiếu trắng)
6. Các
giá trị chính trị
v Dân
chủ
Dân chủ là một hệ thống xử lý xung đột mà kết quả phụ thuộc vào hành động của những người tham gia, nhưng không có một lực lượng duy nhất nào kiểm soát những gì xảy ra và kết quả của nó. Sự không chắc chắn về kết quả là điều vốn có trong nền dân chủ. Nền dân chủ khiến tất cả các lực lượng đấu tranh lặp đi lặp lại để đạt được lợi ích của mình và phân cấp quyền lực từ một nhóm người cho đến một bộ quy tắc. [52]
Trong các nhà lý luận chính trị
hiện đại, có ba khái niệm dân chủ đang tranh cãi nhau: tập hợp, nghị
luận và cấp tiến. [53]
- Tính tập hợp:
Lý thuyết dân chủ tập hợp
tuyên bố rằng mục đích của quá trình dân chủ là tìm kiếm sở thích của công dân
và tập hợp họ lại với nhau để quyết định loại chính sách xã hội mà xã hội nên
áp dụng. Vì vậy, những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, sự tham gia dân chủ
nên tập trung chủ yếu vào việc bỏ phiếu, trong đó những chính sách nào nhận được
nhiều phiếu nhất sẽ được thực hiện.
Có những biến thể khác nhau của
nền dân chủ tập hợp. Theo chủ nghĩa tối giản, dân chủ là một hệ thống chính phủ,
trong đó công dân trao cho đội ngũ các nhà lãnh đạo chính trị quyền cai trị
trong các cuộc bầu cử định kỳ. Theo quan niệm tối giản này, công dân không thể
và không nên “thống trị”, vì ví dụ, trong hầu hết các vấn đề, hầu hết thời
gian, họ không có quan điểm rõ ràng hoặc quan điểm của họ không có cơ sở đầy đủ.
Quan điểm này được biết đến nhiều nhất bởi Joseph Schumpeter trong cuốn sách Chủ
nghĩa tư bản, Chủ nghĩa xã hội và Dân chủ (Capitalism, Socialism, and
Democracy). [54] Những người ủng hộ chủ nghĩa tối giản đương đại bao gồm William
H. Riker, Adam Przeworski, Richard Posner.
Mặt khác, theo lý thuyết dân chủ trực tiếp,
công dân nên bỏ phiếu trực tiếp đối với các đề xuất lập pháp, không thông qua đại
diện của mình. Những người ủng hộ nền dân chủ trực tiếp đưa ra nhiều lý do để ủng
hộ quan điểm này. Bản thân hoạt động chính trị cũng có giá trị, nó xã hội hóa
và tiếp cận giáo dục của công dân, trong khi sự tham gia của công chúng có thể
hạn chế giới tinh hoa mạnh mẽ. Và trên hết, công dân không tự cai trị mình, trừ
khi họ trực tiếp quyết định luật pháp, chính sách.
Chính phủ sẽ có xu hướng ban
hành luật pháp và chính sách gần với quan điểm của các cử tri trung bình - một nửa
cánh tả và một nửa cánh hữu. Đây không phải là một kết quả mong muốn bởi nó thể
hiện hành động tranh giành lá phiếu của giới tinh hoa chính trị ích kỷ và có phần
vô trách nhiệm. Anthony Downs cho rằng cần phải có một đảng tư tưởng đóng vai
trò trung gian hòa giải giữa các cá nhân và chính phủ. Downs đã đưa ra quan điểm
này trong cuốn sách năm 1957 của ông: Lý thuyết kinh tế của nền dân chủ
(The Economic Theory of the Democracy) [55].
Theo Robert A. Dahl, nguyên tắc
cơ bản của dân chủ là mỗi cá nhân trong một cộng đồng chính trị có quyền để lợi
ích của mình được xem xét một cách bình đẳng khi quyết định tập thể mang tính
ràng buộc (không nhất thiết tất cả đều cảm thấy hài lòng với các quyết định tập
thể). Ông sử dụng thuật ngữ đa quốc gia để chỉ những xã hội có sự tồn tại của một
số thể chế và thủ tục được cho là đã dẫn đến nền dân chủ này. Trong các thể chế
này, điều đầu tiên và quan trọng nhất là các cuộc bầu cử tự do và công khai được
tổ chức thường xuyên để chọn ra các đại biểu và sau đó điều hành toàn bộ hoặc hầu
hết các chính sách công của xã hội. Tuy nhiên, các thủ tục đa quốc gia này có
thể không tạo ra một nền dân chủ đầy đủ nếu nghèo đói cản trở sự tham gia chính
trị. [56] Tương tự như vậy, Ronald Dworkin lập luận rằng: “Dân chủ là một lý tưởng
thực chất, không chỉ mang tính thủ tục.” [57]
- Tính nghị luận:
Nền tảng của dân chủ nghị luận
là ý tưởng rằng dân chủ lấy thủ tục làm chính trị. Không giống như dân chủ tập
hợp, dân chủ nghị luận lập luận rằng để một quyết định dân chủ có tính hợp
pháp, nó phải được xem xét thực sự, chứ không chỉ là một bản tóm tắt các ưu
tiên xuất hiện trong cuộc bỏ phiếu. Sự nghị luận thực sự là sự cân nhắc giữa
các nhà hoạch định chính sách, không bị bóp méo bởi quyền lực chính trị bất
bình đẳng, chẳng hạn như quyền lực mà các nhà hoạch định chính sách có được
thông qua sự giàu có kinh tế hoặc sự hỗ trợ của các nhóm lợi ích. [58] Nếu các
nhà hoạch định chính sách không đạt được sự đồng thuận sau khi xem xét thực sự
một đề xuất, họ sẽ bỏ phiếu thông qua đề xuất đó bằng cách sử dụng hình thức quy
tắc đa số.
- Tính cấp tiến:
Nền dân chủ cấp tiến dựa trên
quan niệm rằng trong xã hội tồn tại các quan hệ quyền lực mang tính phân cấp và
áp bức. Vai trò của dân chủ là làm cho các mối quan hệ đó trở nên rõ ràng và bị
thách thức bằng cách cho phép sự khác biệt, bất đồng và đối đầu trong quá trình
ra quyết định.
v Bình
đẳng
Bình đẳng là một trạng thái
trong đó tất cả mọi người trong một xã hội cụ thể hoặc một nhóm bị cô lập có
cùng địa vị xã hội, đặc biệt là địa vị kinh tế–xã hội, bao gồm cả việc bảo vệ
quyền con người và phẩm giá, cũng như quyền tiếp cận bình đẳng với một số hàng
hóa xã hội và dịch vụ xã hội. Ngoài ra, nó cũng có thể bao gồm bình đẳng về y tế,
bình đẳng về kinh tế và an sinh xã hội khác. Bình đẳng xã hội đòi hỏi không tồn
tại những ranh giới về giai cấp hay đẳng cấp xã hội mà pháp luật bắt buộc, và
không có sự phân biệt đối xử do một phần bất khả xâm phạm của bản sắc cá nhân.
Để làm được điều này, luật quy định phải công bằng, bình đẳng về cơ hội, không
phân biệt tính dục, giới tính, dân tộc, tuổi tác, khuynh hướng tình dục, nguồn
gốc, đẳng cấp hoặc tầng lớp, thu nhập hoặc tài sản, ngôn ngữ, tôn giáo, tín ngưỡng,
hiểu biết, sức khỏe hay khuyết tật.
Một cách phổ biến để hiểu chính
trị là thông qua phổ chính trị tả–hữu, từ chính trị cánh tả sang chính trị
trung dung sang chính trị cánh hữu. Cách phân loại này tương đối mới và có từ
Cách mạng Pháp, khi các thành viên Quốc hội ủng hộ Cộng hòa, Dân sự và Xã hội
Thế tục ngồi ở bên trái và những người ủng hộ chế độ quân chủ, đặc quyền quý tộc
và Giáo hội ngồi ở bên phải.
Ngày nay, cánh tả nói chung là
những người tiến bộ, tìm kiếm tiến bộ xã hội trong xã hội. Những người cánh tả
cực đoan hơn, được gọi là cực tả, có xu hướng ủng hộ các phương tiện cách mạng
để đạt được mục tiêu này. Điều này bao gồm các hệ tư tưởng như chủ nghĩa Cộng sản
và chủ nghĩa Marx. Mặt khác, phe trung tả ủng hộ các phương pháp cải cách nhiều
hơn, chẳng hạn như dân chủ xã hội.
Ngược lại, cánh hữu thường được
thúc đẩy bởi chủ nghĩa bảo thủ, những người tìm cách bảo vệ những gì họ coi là
một yếu tố quan trọng trong xã hội. Cực hữu vượt lên trên điều đó, thường đại
diện cho sự xoay chuyển phản động chống lại tiến bộ, tìm cách thu hồi tiến bộ.
Ví dụ về hệ tư tưởng này bao gồm chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa quốc xã. Về vấn
đề này, phe trung hữu có thể ít rõ ràng hơn và hỗn hợp hơn, những người bảo thủ
mới ủng hộ thị trường tự do và sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản, và những người
bảo thủ trong một quốc gia cởi mở hơn với các chương trình phúc lợi xã hội.
[59]
Theo Noberto Bobbio, một trong
những người ủng hộ chính cho sự khác biệt này, cánh tả tin vào những nỗ lực để
xóa bỏ sự bất bình đẳng xã hội—coi đó là phi đạo đức hoặc phi tự nhiên, [60]
trong khi cánh hữu cho rằng hầu hết bất bình đẳng xã hội là kết quả của sự bất
bình đẳng tự nhiên không thể xóa bỏ và cho rằng những nỗ lực để thực thi sự
bình đẳng xã hội là không tưởng hoặc độc tài. [61] Một số tư tưởng, nhất là nền
dân chủ Ki-tô giáo, tuyên bố kết hợp chính trị cánh tả và cánh hữu; Theo
Jeffrey K. Roberts và Patricia Hogwood, “về
mặt ý thức hệ, nền dân chủ Kitô giáo kết hợp nhiều quan điểm được giữ bởi những
người tự do, bảo thủ và xã hội chủ nghĩa trong một khuôn khổ rộng lớn hơn của
các nguyên tắc đạo đức và Kitô giáo.” [62] Các phong trào tuyên bố hoặc trước
đây tuyên bố đứng trên sự phân biệt tả–hữu bao gồm chính trị kinh tế phát-xít ở
Italy và chủ nghĩa Peron ở Argentina. [63]
v Tự
do
Tự do chính trị (còn gọi là khai
phóng chính trị hoặc tự trị) là khái niệm cốt lõi của tư tưởng chính trị và là
một trong những đặc điểm quan trọng nhất của xã hội dân chủ. Tự do tiêu cực được
mô tả là tự do không bị áp bức hoặc ép buộc và các hạn chế hành động bên ngoài
vô lý, thường được thực hiện thông qua các quyền dân sự và chính trị, trong khi
tự do tích cực là sự vắng mặt của các điều kiện bất lợi cho một cá nhân trong một
xã hội và sự thỏa mãn các điều kiện thuận lợi, chẳng hạn như ép buộc kinh tế.
Cách tiếp cận năng lực này đối với tự do đòi hỏi các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa để đạt được.
Chủ nghĩa độc đoán và chủ nghĩa
tự do không đồng ý với số lượng tự do cá nhân mà mỗi người có trong xã hội đó
so với nhà nước. Một tác giả mô tả hệ thống chính trị độc tài là “các quyền và
mục tiêu cá nhân phục tùng các mục tiêu nhóm, kỳ vọng và phục tùng” [64] trong
khi những người theo chủ nghĩa tự do thường chống lại nhà nước và coi cá nhân
là chủ quyền. Từ hình thức thuần túy nhất, những người theo chủ nghĩa tự do là
những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, họ chủ trương xóa bỏ hoàn toàn các quốc
gia, các đảng phái chính trị và các thực thể chính trị khác, trong khi những
người theo chủ nghĩa độc tài thuần túy nhất, như tên gọi của họ, là những người
theo chủ nghĩa toàn trị, ủng hộ sự kiểm soát của nhà nước đối với tất cả các
khía cạnh của xã hội.
Ví dụ, chủ nghĩa tự do cổ điển
(hay còn gọi là chủ nghĩa tự do Laissez-faire) [65] là một học thuyết nhấn
mạnh tự do cá nhân và một chính phủ có giới hạn. Điều này bao gồm tầm quan trọng
của lý trí con người, quyền sở hữu cá nhân, thị trường tự do, quyền tự nhiên, bảo
vệ quyền tự do dân sự, hạn chế hiến pháp đối với chính phủ, và tự do cá nhân
không bị ràng buộc, được thể hiện trong các tác phẩm của John Locke, Adam
Smith, David Hume, David Ricardo, Voltaire, Montesquieu và những người khác.
Theo Viện Nhân đạo Tự do, “quan điểm của những người tự do hay'tự do cổ điển'
là hạnh phúc cá nhân, thịnh vượng và hòa hợp xã hội được thúc đẩy bởi'càng nhiều
tự do càng tốt' và 'càng ít chính phủ càng tốt'.” [66] Đối với nhà triết học
chính trị vô chính phủ L. Susan Brown (1993): “Chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa vô
chính phủ là hai triết học chính trị, về cơ bản đều liên quan đến tự do cá
nhân, nhưng khác nhau theo những cách rất khác nhau. Chủ nghĩa vô chính phủ, giống
như chủ nghĩa tự do, có những cam kết triệt để về tự do cá nhân, đồng thời bác
bỏ các mối quan hệ tài sản cạnh tranh của chủ nghĩa tự do.” [67]
Chính trị thường gắn bó mật
thiết với đời sống con người, thậm chí theo nghĩa rộng thì mọi quan hệ đời sống
con người cũng được xem là chính trị. Tuy nhiên, hầu như người ta ít quan tâm nó
có nghĩa là gì, người bình dân thì ngại nói đến, mà người trí thức thì nói huyên
thuyên nhưng chẳng hiểu một cách cơ bản và đầy đủ chính trị là gì, do đó một bài
viết xác minh về chính trị quả là cần thiết, để đưa đến cho người đọc cách hiểu
khái quát nhất.
Chú thích:
[1].
Leftwich, Adrian (2015). What is
politics?: the activity and its study. Polity Press, tr. 68.
[2].
Hague, Rod; Harrop, Martin (2013). Comparative
Government and Politics: An Introduction. Macmillan International Higher
Education, tr. 1.
[3].
Brady, Linda P. (2017). The
Politics of Negotiation: America's Dealings with Allies, Adversaries, and
Friends. University of North Carolina Press. tr. 47.
[4]. Kabashima, Ikuo; White III, Lynn T.,
eds. (1986). Political System and Change: A World Politics Reader.
Princeton University Press.
[5].
Buhler, C. F., ed. 1961 [1941]. The
Dictes and Sayings of the Philosophers. London: Early English Text Society,
Original Series No. 211 lưu trữ ngày 5-9-2016 tại Wayback Machine.
[6].
Lasswell, Harold D. (1963) [1958]. Politics:
who gets what, when how: With postscript. World.
[7].
Easton, David (1981). The
political system: an inquiry into the state of political science (3rd ed.).
University of Chicago Press.
[8].
Lenin, Vladimir I. (1965). Collected
works. 9-1903 – 12-1904.
[9].
Crick, Bernard (1972). In defence
of politics. University of Chicago Press.
[10]. Leftwich,
Adrian (2004). What is politics? : the activity and its study. Polity.
[11]. Leftwich, Adrian (2004). What
is politics? : the activity and its study. Polity,
tr. 14–15.
[12]. Leftwich, Adrian (2004). What
is politics? : the activity and its study. Polity,
tr. 23.
[13]. Leftwich, Adrian (2004). What
is politics? : the activity and its study. Polity,
tr. 119.
[14]. Dahl, Robert A. (2003). Modern
political analysis. Prentice Hall, tr. 1–11.
[15].
Morlino,
Leonardo (2017). Political science. Sage Publications Inc. tr. 2.
[16]. Atkinson, Sam (2013). The
politics book. DK. tr. 1–5.
[17]. Leftwich, Adrian (2004). What
is politics? : the activity and its study. Polity,
tr. 73.
[18]. Leftwich, Adrian (2004). What
is politics? : the activity and its study. Polity,
tr. 16.
[19]. Morlino, Leonardo (2017). Political
science. Sage Publications Inc. tr. 3.
[20]. Schattschneider, Elmer Eric
(1960). The semisovereign people : a realist's view of democracy
in America. Dryden P. tr. 2.
[21]. Mouffe,
Chantal (1999). The Challenge of Carl Schmitt. Phiên bản ISBN
978-1-85984-244-7. Lưu trữ từ bản gốc ngày 26/1/2021.
[22]. Nguyên
văn: “Politics is about the characteristic blend of conflict and co-operation
that can be found so often in human interactions. Pure conflict is war. Pure
co-operation is true love. Politics is a mixture of both”. van der Eijk, Cees (2018). “What Is
Politics?”. The Essence of Politics. Amsterdam: Amsterdam University
Press. tr. 9–24.
[23]. de Waal, Frans (2007). Chimpanzee
politics power and sex among apes. Johns Hopkins University Press.
[24]. Fukuyama, Francis (2012). The
origins of political order : from prehuman times to the French Revolution.
Farrar, Straus and Giroux. tr. 56.
[25]. Spencer, Charles S.; Redmond, Elsa M.
(15 September 2004). “Primary State Formation in Mesoamerica”. Annual
Review of Anthropology. 33 (1): 173–199.
[26]. Carneiro, Robert L. (21/8/1970). “A Theory of the Origin of the State: Traditional theories
of state origins are considered and rejected in favor of a new ecological
hypothesis”. Science. 169 (3947):
733–738.
[27]. Daniel, Glyn (2003) [1968]. The First Civilizations: The Archaeology of their Origins. New York: Phoenix Press. tr.
xiii.
[28]. Daniel, Glyn (2003) [1968]. The First Civilizations: The Archaeology of their Origins. New York: Phoenix Press.
tr. 9–11.
[29]. Nelson,
B.; Nelson, Brian R. (16/3/2006). The Making of the Modern State: A
Theoretical Evolution. Palgrave Macmillan, tr. 17.
[30]. Osiander, Andreas (2001). “Sovereignty,
International Relations, and the Westphalian Myth”. International
Organization. 55 (2): 251–287, tr. 251.
[31]. Kissinger, Henry (2014). World
Order. Penguin Books.
[32]. Krasner, Stephen D. (2010). “The
durability of organized hypocrisy”. In Kalmo, Hent; Skinner, Quentin
(eds.). Sovereignty in Fragments: The Past, Present and Future of a
Contested Concept. Cambridge University Press.
[33]. Hobsbawm, Eric (1990). Nations and Nationalism since
1780 : programme, myth, reality, Cambridge Univ. Press.
Chương II “Chủ nghĩa dân tộc nguyên thủy phổ biến” (The popular
protonationalism), tr. 80–81 bản tiếng Pháp (Gallimard, 1992). Theo
Hobsbawm, nguồn chính của chủ đề này là Ferdinand Brunot (chủ biên), Histoire
de la langue française, Paris, 1927–1943, tập 13, đặc biệt là tập 9. Ông
cũng đề cập đến Michel de Certeau, Dominique Julia, Judith Revel, Une
politique de la langue: la Révolution française et les patois: l'enquête de
l'abbé Grégoire, Paris, 1975. Đối với vấn đề chuyển đổi ngôn ngữ chính thức
của các dân tộc thiểu số thành ngôn ngữ quốc gia được sử dụng rộng rãi trong và
sau Cách mạng Pháp, xem Renée Balibar, L'Institution du français: essai sur
le co-linguisme des Carolingiens à la République, Paris, 1985 (cũng gọi Le
co-linguisme, PUF, Que sais-je?, 1994, nhưng không còn xuất bản nữa). Cuối
cùng, Hobsbawm đề cập đến Renée Balibar và Dominique Laporte, Le Français
national: politique et pratique de la langue nationale sous la Révolution,
Paris, 1974.
[34]. Al-Rasheed, Madawi; Kersten, Carool;
Shterin, Marat (11/12/2012). Demystifying the Caliphate: Historical Memory and
Contemporary Contexts. Oxford University Press. tr. 3.
[35]. Richards, Howard (2004). Understanding
the Global Economy. Peace Education Books.
[36]. Wilkinson, Henry Robert (1951). Maps and Politics: A Review
of the Ethnographic Cartography of Macedonia. University of Liverpool Press.
tr. 59–98, 100–47.
[37]. Bellezza,
Giuliano. (2013). “On Borders: From Ancient to Postmodern Times Archived 26
September 2020 at the Wayback Machine.” Int. Arch. Photogramm. Remote Sens.
Spatial Inf. Sci. 40-4(W3):1–7. doi:10.5194/isprsarchives-XL-4-W3-1-2013
[38]. Mikhailova,
E. V. (2013). “Appearance and Appliance of the Twin-Cities Concept on the
Russian-Chinese Border Archived 26 September 2020 at the Wayback Machine.” Int.
Arch. Photogramm. Remote Sens. Spatial Inf. Sci. 40-4(W3):105–10.
doi:10.5194/isprsarchives-XL-4-W3-105-2013
[39]. Branch,
Jordan (2011). “Mapping the Sovereign State: Technology, Authority, and
Systemic Change”. International Organization. 65 (1): 1–36.
doi:10.1017/S0020818310000299
[40]. Easton, David (1981). The
political system: an inquiry into the state of political science (3rd ed.).
University of Chicago Press.
[41]. Craig, Edward, ed. (2005). “Anarchism”. The
Shorter Routledge Encyclopedia of Philosophy. tr. 14.
[42]. Ellis,
Stephen (2001). The Mask of Anarchy: The Destruction of Liberia and the
Religious Dimension of an African Civil War. NYU Press. tr. 198.
[43]. Béteille,
André (2002). “Inequality and Equality”. In Ingold, Tim (ed.). Companion
Encyclopedia of Anthropology. Taylor & Francis. tr. 1042–1043.
[44]. Faulks,
Keith (2000). Political Sociology: A Critical Introduction. NYU Press.
p. 23.
[45]. Sheehan, Sean (2004). Anarchism.
London: Reaktion Books. tr. 85.
[46]. Slevin,
Carl (2003). “Anarchism”. In McLean, Iain & McMillan, Alistair (eds.). The
Concise Oxford Dictionary of Politics. Oxford University Press.
[47]. Engels,
Frederick (1880). “Part III: Historical Materialism”. Socialism: Utopian and
Scientific. Lưu trữ từ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2021 qua Kho lưu trữ Internet
của Marx/Engels (marxists.org). Sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ xã hội,
ở hết lĩnh vực này đến lĩnh vực khác, trở nên thừa thãi, rồi tự triệt tiêu; quản
lý con người được thay thế bằng quản lý sự vật và tiến hành quá trình sản xuất.
Nhà nước không “bãi bỏ”. Nó tiêu vong… Xã hội hóa sản xuất theo kế hoạch đã định
từ đó trở nên khả thi. Sản xuất phát triển làm cho sự tồn tại của các giai cấp
trong xã hội từ đó trở nên lạc hậu. Cùng với sự biến mất của tình trạng vô
chính phủ trong sản xuất xã hội, quyền lực chính trị của nhà nước cũng chết dần.
Con người, cuối cùng là chủ nhân của hình thức tổ chức xã hội của chính mình, đồng
thời trở thành chủ nhân của tự nhiên, chủ nhân của chính mình là tự do.
[48]. Morlino, Leonardo; Berg-Schlosser,
Dirk; Badie, Bertrand (6/3/2017). Political science : a global
perspective. London, England. tr. 64–74.
[49]. Hague, Rod (14 October 2017). Political
Science: A Comparative Introduction. tr. 200–214.
[50]. Morlino, Leonardo; Berg-Schlosser,
Dirk; Badie, Bertrand (6/3/2017). Political science : a global
perspective. London, England. tr. 20.
[51]. Morlino, Leonardo; Berg-Schlosser,
Dirk; Badie, Bertrand (6/3/2017). Political science : a global
perspective. London, England. tr. 161.
[52]. Przeworski,
Adam (1991). Democracy and the Market. Cambridge University Press. tr.
10–14.
[53]. Springer,
Simon (2011). “Public Space as Emancipation: Meditations on Anarchism, Radical
Democracy, Neoliberalism and Violence”. Antipode. 43 (2): 525–62.
doi:10.1111/j.1467-8330.2010.00827.x
[54]. Schumpeter,
Joseph (1950). Capitalism, Socialism, and Democracy. Harper Perennial.
[55]. Downs, Anthony (1957). An Economic Theory of Democracy.
New York: Harper Collins College.
[56]. Dahl,
Robert A. (1989). Democracy and its critics. New Haven: Yale University
Press.
[57]. Dworkin,
Ronald. (2006). Is Democracy Possible Here? Princeton: Princeton
University Press. tr. 134.
[58]. Cohen, Joshua (1997). “Deliberation and Democratic
Legitimacy.” In Essays on Reason and Politics: Deliberative Democracy,
biên tập: J.
Bohman và W. Rehg. Cambridge: The MIT Press.
tr. 72–73.
[59]. Knapp, Andrew; Wright, Vincent
(2006). The Government and Politics of France. London: Routledge.
[60]. Gelderloos, Peter (2010). Anarchy
Works: Examples of Anarchist Ideas in Practice. Little Black Cart.
[61]. Bobbio,
Norberto (1997). Left and Right: The Significance of a Political Distinction.
Dịch giả: Cameron, A. Chicago: University of Chicago Press.
[62]. Roberts
and Hogwood (1997). European Politics Today. Manchester University Press.
[63]. Tore, Bjorgo (2014). Terror
from the Extreme Right. Hoboken: Taylor and Francis.
[64]. Kemmelmeier,
Markus; et al. (2003). “Individualism, Collectivism, and Authoritarianism in
Seven Societies”. Journal of Cross-Cultural Psychology. 34 (3): 304–322.
doi:10.1177/0022022103034003005
[65]. Adams,
Ian. (2001). Political Ideology Today. Manchester: Manchester University
Press. tr. 20.
[66]. IHS.
(2019). “What Is Libertarian?.” Viện Nhân đạo. Đại học George Mason. Lưu trữ
ngày 24 tháng 3 năm 2007 tại Wayback Machine.
[67]. Brown,
L. Susan. (1993). The Politics of Individualism: Liberalism, Liberal
Feminism, and Anarchism. Black Rose Books.
Bởi: Nguyễn Thành Sang
Ngày 21-09-2022
Nhận xét
Đăng nhận xét