Chuyển đến nội dung chính

ĐỀU LÀ NƯỚC PHIÊN THUỘC CỦA TRUNG QUỐC, TẠI SAO VUA VIỆT NAM CÓ THỂ XƯNG ĐẾ TRONG KHI VUA HÀN QUỐC CHỈ XƯNG VƯƠNG?


Từ cổ đại cho đến cận đại, Trung Quốc đều đóng vai là nước tông chủ của khu vực châu Á, các nước xung quanh trừ Nhật Bản ra đều đóng vai là nước phiên thuộc. Trong số đông những nước phiên thuộc của Trung Quốc thì Việt Nam và Hàn Quốc (Triều Tiên) là hai nước cảm lấy khái niệm đó cao nhất.
Nói đến nước phiên thuộc thì rất nhiều độc giả sẽ dễ hiểu lầm cho nên cần phải phổ cập khái niệm này một chút. Thật ra không phải cứ nói một nước này là phiên thuộc của một nước khác, mà là một triều đại nào đó của nước ấy trở thành phiên thuộc của triều đại nọ bên nước khác thôi. Lấy ví dụ như nhà Thanh của Trung Quốc, nhà Nguyễn của Việt Nam và nhà Triều Tiên của Hàn Quốc, như vậy nói cho chuẩn thì nhà Nguyễn của Việt Nam và nhà Triều Tiên (họ Lee) của Hàn Quốc là nước phiên thuộc của nhà Thanh bên Trung Quốc.
Các triều đại khác của Trung Quốc cùng với các triều đại khác của Việt Nam, của Hàn Quốc cũng là lẽ như nhau.

Nước phiên thuộc phải cúi đầu xưng thần với nước tông chủ, toàn bộ hệ thống tông và phiên chỉ cho phép là vua nước tông chủ xưng đế thôi, cho nên vua của các nước phiên thuộc không được xưng đế mà chỉ được xưng vương. Nhưng rất nhiều độc giả sẽ nhận ra dù là các triều đại ở Việt Nam đều thành nước phiên thuộc của các triều đại ở Trung Quốc nhưng vua của Việt Nam luôn xưng đế, trong khi các triều đại của Hàn Quốc cũng là nước phiên thuộc của các triều đại ở Trung Quốc nhưng lại luôn xưng vương.
Tại sao đãi ngộ của Việt Nam lại khác với vua Hàn Quốc vậy? Trung Quốc xưng đế sao lại đi cho phép vua Việt Nam xưng đế?

Đầu tiên phải nói là, quốc lực của Việt Nam không cùng đẳng cấp với quốc lực của Hàn Quốc. Từ năm 968, nhà Đinh thành lập ở Việt Nam bắt đầu trở thành một quốc gia độc lập, Tống triều Trung Quốc đã nhiều lần phái binh Nam hạ tính thu phục nước Việt Nam vừa mới độc lập nhưng lần nào cũng thất bại quay về. Sau này đế quốc Mông-cổ hùng mạnh sắp kế hoạch đem binh chinh phục Việt Nam nhưng cũng thất bại y như triều trước. Nhìn ngược lại quốc lực Hàn Quốc đi, vào thời nhà Cao Ly của họ Wang, Hàn Quốc bị đế quốc Mông-cổ chinh phục, bị buộc trở thành nước phiên thuộc; vào thời nhà Triều Tiên của họ Lee, Hàn Quốc bị Nhật Bản xâm lược sém chút nữa là mất nước, may sao nhà Minh của Trung Quốc đứng ra bảo vệ nên mới phục quốc nổi; sau này nhà Triều Tiên lại bị triều Thanh chinh phục, bị ép phải cắt đứt mối quan hệ tông–phiên với nhà Minh, trở thành nước phiên thuộc của nhà Thanh.

Lại nữa, vị trí địa lý và môi trường của Việt Nam khác với Hàn Quốc. Trung tâm chính trị của các triều đại Trung Quốc đều nằm ở phương Bắc, mà Hàn Quốc thì nằm gần miền đông bắc Trung Quốc, với lại phần lớn là địa hình đồng bằng, nếu lỡ có xảy ra biến cố gì Trung Quốc có thể tức tốc điều động quân đội sang để hỗ trợ hoặc là đàn áp. Việt Nam thì cách xa trung tâm chính trị của các triều đại Trung Quốc, với lại phần lớn là địa hình núi rừng, Trung Quốc điều động quân đội sang Việt Nam không những khả năng bổ sung cấp cứu không kịp, với lại còn nhiều vấn đề như không quen với khí hậu thủy thổ, không thuộc địa hình, dẫn đến thua binh tổn tướng. Nhà Minh của Trung Quốc đã từng tạm thời thu phục Việt Nam nhưng về sau lại từ bỏ lần nữa, để cho Việt Nam độc lập, đó chính là lẽ này vậy.

Với thứ ba, thái độ của Việt Nam và Hàn Quốc đối với Trung Quốc khác nhau hẳn hoi. Hàn Quốc thì luôn cúi đầu xưng thần tâm phục khẩu phục Trung Quốc, nhưng Việt Nam thì bề ngoài như thần phục song trong lòng không phục Trung Quốc, luôn muốn ngang hàng với Trung Quốc. Bờ cõi Việt Nam thuở độc lập ban đầu chỉ có miền Bắc Bộ bây giờ thôi, nhưng dã tâm của Việt Nam thì không nhỏ, luôn mở rộng bờ cõi ra bên ngoài, đem miền Nam bỏ vào trong bản đồ luôn như ngày nay, hơn nữa còn buộc các nước nhỏ xung quanh phải thần phục mình. Cũng tức là nói Việt Nam ngoại trừ là nước phiên thuộc của Trung Quốc ra, tự mình cũng là nước tông chủ của các tiểu quốc xung quanh, ví như Chân-lạp, Chiêm Thành v.v…

Theo tác giả: Vô Hạ Đàm Ngu Lạc, đăng 07-07-2019, 360kuai
Nguyễn Thành Sang dịch Việt.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bình thơ: HIỆP KHÁCH HÀNH của Lý Bạch

                         Nguyên văn: 趙客縵胡纓, 吳鉤霜雪明。 銀鞍照白馬, 颯沓如流星。   十步殺一人, 千里不留行。 事了拂衣去, 深藏身與名。   閑過信陵飲, 脫劍膝前橫。 將炙啖朱亥, 持觴勸侯嬴。   三杯吐然諾, 五嶽倒為輕。 眼花耳熱後, 意氣素霓生。   救趙揮金槌, 邯鄲先震驚。 千秋二壯士, 烜赫大梁城。   縱死俠骨香, 不慚世上英。 誰能書閣下, 白首太玄經。 Phiên âm: “Triệu khách mạn hồ anh, Ngô câu sương tuyết minh. Ngân yên chiếu bạch mã, Táp đạp như lưu tinh.   Thập bộ sát nhất nhân, Thiên lý bất lưu hành. Sự liễu phất y khứ, Thâm tàng thân dữ danh.   Nhàn quá Tín Lăng ẩm, Thoát kiếm tất tiền hoành. Tương chích đạm Chu Hợi, Trì thương khuyến Hầu Doanh.   Tam bôi thổ nhiên nặc, Ngũ Nhạc đảo vi khinh. Nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu, Ý khí tố nghê sinh.   Cứu Triệu huy kim chùy, Hàm Đan tiên chấn kinh. Thiên thu nhị tráng sĩ, Huyên hách Đại Lương thành.   Túng tử hiệp cốt hương, Bất tàm thế thượng anh....

A Horror Ghost-story in Vietnam: SEVEN YARDS OF WHITE CLOTH

  A Horror G host - stor y in Vietnam: SEVEN YARDS OF WHITE CLOTH This is a true story related to Thuan Kieu Plaza, one of the most haunted places in Saigon, Vietnam. Thuan Kieu Plaza was later renamed The Garden Mall in 2015 and reopened in 2017, its address is at No. 190 Hong Bang street, Ward 12, District 5, Ho Chi Minh City (Saigon) , Vietnam. The story took place in the autumn of 2002 among a group of Hoa-people (Chinese-Vietnamese) students mainly living in the Cho Lon area of Saigon. This group of friends in junior school went to the same school, but when they went to high school, they would learn to different schools, each person would be in different directions. Since they are all Hoa-people, most of them will be sent to the Chinese school in District 5 to study. From 1996 to that time, Vietnamese society stirred up with the series of Young and Dangerous with the main character Chan Ho-Nam, these young students also admired them, often go to Thuan Kieu Plaza to hu...

CHÍNH TRỊ LÀ GÌ?

Chính trị (tiếng Hy-lạp gọi là Πολιτικά [ politiká ], nghĩa “các sự vụ của thành thị”) là một loạt các hoạt động liên quan đến các quyết định trong một nhóm hoặc các hình thức khác của mối quan hệ quyền lực giữa các cá nhân, chẳng hạn như phân bổ tài nguyên hoặc địa vị. Các nhánh của khoa học xã hội nghiên cứu về chính trị và chính phủ được gọi là chính trị học. Nó có thể được sử dụng tích cực trong các “giải pháp chính trị” mang tính thỏa hiệp và phi bạo lực [1] hoặc được mô tả là “mưu thuật hoặc khoa học của chính phủ”, nhưng cũng thường mang một nội dung tiêu cực. [2] Có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, với các cách tiếp cận khác nhau có quan điểm cơ bản khác nhau về việc nó nên được sử dụng rộng rãi hoặc hạn chế, sử dụng kinh nghiệm hoặc tiêu chuẩn, và xung đột hoặc hợp tác là quan trọng hơn đối với nó.   Các phương pháp khác nhau đã được sử dụng trong chính trị, bao gồm tuyên truyền quan điểm chính trị của họ trong nhân dân, đàm phán với các chủ thể chính trị ...