Chuyển đến nội dung chính

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NGUYỄN VỚI TRUNG QUỐC LÀ THẾ NÀO? NHÀ NGUYỄN CÓ VĂN HÓA RA SAO?

  

Phương diện ngoại giao, nhà Nguyễn khôi phục quan hệ tông–phiên với Thanh triều Trung Quốc, với Pháp Quốc từ hảo trở thành ác, tích cực gia tăng sức ảnh hưởng tại bán đảo Đông Dương. Khi Gia Long đế mới lập quốc liền phái sứ sang Thanh cầu phong làm “Nam Việt quốc vương” (南越國王), Thanh triều Gia Khánh đế không tán thành hai chữ “Nam Việt” nên đã cải phong Nguyễn Phúc Ánh thành “Việt Nam quốc vương” (越南國王), thế là bắt đầu lấy “Việt Nam” làm quốc danh.

Đối với Pháp Quốc, vì Gia Long đế trong thời chiến tranh khai quốc từng cầu trợ với người Pháp nên nhân sĩ Pháp tịch được ưu đãi trong nhà Nguyễn mới hồi đầu và cho phép thương thuyền Pháp Quốc đến Việt Nam mậu dịch. Nhưng đối với Điều ước Phàm-nhĩ-tái (Traité de Versailles) giữa Việt và Pháp thì Gia Long bảo rằng do chính phủ Pháp Quốc chưa hề thực hành nên bãi bỏ. Thời Minh Mạng cấm chỉ truyền giáo sĩ Âu châu truyền giáo tại Việt Nam, quan hệ Việt–Pháp trở nên tồi tệ, người Pháp Quốc đã có điều bất mãn với Minh Mạng nên phê bình ông “vứt bỏ ân huệ của người Pháp và thù địch với người Âu châu.” Đối với lân quốc Cao-miên trên bán đảo Đông Dương, nhà Nguyễn kế tục chính sách nhập xâm của thời kỳ Nguyễn chúa, thời kỳ Gia Long đã ép họ trở thành nước triều cống, do Nguyễn đình sách phong Cao-miên quốc vương (高棉國王). Xiêm-la (nay là Thái Quốc) cũng có ý đồ can thiệp nội chính Cao-miên, Gia Long bèn phái quân tiến đóng Cao-miên, do thân tín của ông là Lê Văn Duyệt phụ trách suất lĩnh, lại tu kiến thành trì ở Nam Vinh (nay là Kim Biên – Phnom Pênh) để “triệp phục” người Xiêm, đạt mục đích “bảo hộ” Cao-miên của nhà Nguyễn. Đến thời Minh Mạng khu hoạch hành chính cải biến Cao-miên để cho nó đồng hóa với Việt Nam. Ngoài ra, Minh Mạng lại tranh đoạt quốc thổ Lão-qua với Xiêm-la, sau nhiều lần dụng binh nhà Nguyễn đem quốc giới khuếch trương đến sông Mê Kông, tiếp nhưỡng với Xiêm-la. Thời Thiệu Trị do Nam Chưởng khấu biên nên Nguyễn đình áp dụng phương châm “dân họp lại khai hoang đất đai, chuẩn bị vũ trang cho biên giới ngày một hoàn thiện” (dân tụ địa tịch, biên bị nhật hoàn), đặt thêm các quan thự ở biên địa, chiêu mộ binh dũng, thổ dân, thương nhân nhà Thanh khai khẩn khu ấy và phòng phạm Nam Chưởng. Nhờ những kinh lược tích cực của Nguyễn đình, lãnh thổ của họ đã có sự khuếch trương, sử xưng nhà Nguyễn “đã có cả vùng An Nam thống nhất được bản đồ, phạm vi biên giới đã được mở mang phía nam đến Xiêm-la và Chân-lạp, phía bắc đến Đại Thanh, phía đông đến Biển Đông mà phía tây qua Ai-lao.” (Yêm hữu An Nam, nhất thống dư đồ, bức biên sở kị, nam để Xiêm Lạp, bắc giáp Thanh Quốc, đông chí hải, tây du Ai-lao.)

Đối với ngoại thương và đối ngoại mậu dịch, nhà Nguyễn có những thi thố tương quan. Như theo Đại Nam thực lục ghi, Gia Long đế quy định khi thương thuyền ngoại quốc kinh thương tại Gia Định rời đi thì quan phủ phải bán cho mỗi người trên thuyền 100 cân gạo, trả giá cho mỗi người 3 xâu tiền. Thời Minh Mạng đã có ý chiêu lai ngoại thương nên đã châm chước khoan giảm các khoản thuế cho thương thuyền để tỏ ý “mềm dẻo với người nơi xa” (nhu hoài viễn nhân).

Văn hóa

Thời kỳ nhà Nguyễn thống trị, văn hóa phát triển bồng bột, đương thời sĩ đại phu tự khoe là người kế thừa văn hóa Trung Quốc, thậm chí cho rằng Việt Nam là “Hoa” chứ không phải “Di.” Văn học nhà Nguyễn được sự phát triển trường túc, các tác phẩm đại biểu có Kim Vân Kiều truyện do Nguyễn Du biên soạn, tác phẩm ấy được viết thành bằng cách vận dụng chữ Nôm và “thể lục bát” độc hữu của Việt Nam, ngôn ngữ ưu mỹ, chiếm địa vị trọng yếu trong văn học sử Việt Nam. Tiểu thuyết Hán văn nhà Nguyễn thịnh hành, xuất hiện các tác phẩm với nhiều loại hình, trứ danh thì có loại diễn nghĩa lịch sử Việt Nam khai quốc chí truyện (Nguyễn Bảng Trung soạn), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô Chí soạn, Ngô Du tục, Ngô Nhậm biên tập), tác phẩm loại truyền kỳ Tân Truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích soạn), tác phẩm loại bút ký tiểu thuyết Kiến văn tập (Vũ Trinh soạn), Tang thương Ngẫu lục (Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án soạn), loại chí quái Từ Liêm huyện Lý Thiên Vương sự tích, Sĩ vương sự tích (không rõ tác giả) v.v. Văn học nữ tính có thi nhân trứ danh Hồ Xuân Hương, tác phẩm của bà có tư tưởng bảo vệ sự tôn nghiêm cho phụ nữ, phê phán đạo đức phong kiến. Tại phương diện sử học có Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí (tu thời Gia Long), Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (tu thời Tự Đức), Đại Nam thực lục toản tu ở mỗi đời, cũng như Lịch triều Hiến chương Loại chí được Phan Huy Chú soạn v.v. Tại phương diện kiến trúc, Nguyễn triều quốc đô Thuận Hóa kinh thành (tức Phú Xuân) mô phỏng quy hoạch của kinh thành Bắc Kinh Trung Quốc, hoàng cung Tử cấm thành cũng tham khảo Tử cấm thành Trung Quốc hưng kiến, quy mô khoảng ba phần tư của nó, tại hậu thế được Tổ chức UNESCO liệt vào di sản văn hóa thế giới.

Nguồn: qulishi.com
Nguyễn Thành Sang dịch

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th