1. Tiền thân vương triều
Quảng Nam quốc (1558–1777 Công nguyên) là tiền thân của
triều Nguyễn, năm 1777 có lần đã bị triều Tây Sơn tiêu diệt. Quân chủ Quảng Nam
quốc mặc dù là vị vương khác họ vốn là thuộc hạ của triều Hậu Lê, nhưng Lê
hoàng không có một chút ảnh hưởng nào đến họ. Thực chất Quảng Nam quốc đã trở
thành một vương quốc độc lập.
Năm 1558 Công nguyên, Nguyễn Hoàng mượn cớ trấn thủ
Thuận Hóa và đã đặt nền tảng cho Nguyễn thị Quảng Nam quốc. Chính quyền chúa
Nguyễn không đặt quốc hiệu là “Quảng Nam” (廣南),
theo sử gia Trần Trọng Kim thời cận đại Việt Nam đã nói: “Cõi phương Nam bấy giờ
tuy đã độc lập nhưng họ Nguyễn chỉ xưng chúa mà không xưng vương, và vẫn chưa đặt
quốc hiệu. Tuy nhiên người ngoại quốc thường xưng lãnh địa chúa Nguyễn là Quảng
Nam quốc, vì Quảng Nam có đất Hội An (Phí Phúc, Faifó) là nơi người Tàu và người
các xứ khác ra vào buôn bán, cho nên mới gọi là Quảng Nam.”
Thời Nguyễn Hy Tông Nguyễn Phúc Nguyên đã xác lập Nguyễn
Phúc là quốc tính. Về hậu kỳ Quảng Nam quốc, Nguyễn Thế Tông chìm đắm vào nữ sắc
và sưu cao thuế nặng nên nhân dân bất mãn, càng khiến cho triều Tây Sơn có cơ hội
phát động cuộc khởi nghĩa. Tháng 8 năm 1777 Công nguyên, Nguyễn Văn Huệ đánh
vào Hương Đôi, vị chúa cuối cùng của Quảng Nam quốc là Nguyễn Phúc Dương cùng
các đại thần bàn bạc chạy xuống Bình Thuận, nhưng chưa kịp bỏ trốn thì ngài với
mười tám đại thần bọn Tống Phúc Hòa bị quân đội triều Tây Sơn giết chết.
2.
Lập quốc xưng đế
Nguyễn Phúc Ánh (阮福映,
1762–1820) là người đã sáng kiến triều Nguyễn, gọi tắt là Nguyễn Ánh, thường gọi
là vua Gia Long, là hậu duệ của tông thất Nguyễn vương Quảng Nam quốc.
Mùa xuân năm 1775 Công nguyên, quân đội họ Trịnh ở
phương Bắc đánh chiếm Phú Xuân (nay là Huế), Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn theo người
chú là Nguyễn Phúc Thuần xuống phương Nam. Năm 1777 Công nguyên, Định vương
Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phúc Dương bị quân khởi nghĩa Tây
Sơn sát hại tại Gia Định, chì có Nguyễn Phúc Ánh may mắn trốn thoát một mình,
được các cựu thần họ Nguyễn suy tôn là Nguyên soái Nhiếp quốc chính tại Long
Châu.
Năm 1780 Công nguyên, Nguyễn Phúc Ánh xưng vương tại
Gia Định, cất lời thề khôi phục tổ nghiệp họ Nguyễn, đóng ở Sài Côn (Sài Gòn)
chống lại với quân Tây Sơn. Năm 1782 bị quân Tây Sơn đánh bại, ngài phải lưu
vong đến đảo Phú Quốc. Năm 1784 Công nguyên, ngài liên quân với Xiêm-la nhưng lại
bị quân Tây Sơn đánh bại lần nữa, buộc phải lưu vong ở bên Xiêm-la. Sau này dưới
sự giúp đỡ của truyền giáo sĩ Bá-đa-lộc người Pháp được nước Pháp viện trợ, năm
1786 Công nguyên, Bá-đa-lộc thay mặt Nguyễn Phúc Ánh cùng ký Điều ước Phàm-nhĩ-tái (Traité de
Versailles) với chính phủ Pháp, quy định Pháp quốc phái binh viện trợ Nguyễn
Phúc Ánh và sẽ được cảng Đà Nẵng (Hiện Cảng) và đảo Côn Lôn của Việt Nam. Song
cuộc đại cách mạng Pháp bùng nổ tức thì đã khiến cho Điều ước chưa thể được thi
hành. Bá-đa-lộc thấy chính phủ Pháp không chịu xuất binh nên đành tự tuyển mộ
binh lính và sắm sửa khí giới liên kết với 20 vị giáo quan người Pháp quay về
Việt Nam. Bất luận thế nào, Bá-đa-lộc cuối cùng cũng đã không phụ sự ủy thác,
trải qua bao nhiêu gian nan cũng đem được ngoại viện về. Đây là một người Tây
Dương đã dành trọn đời để phục vụ Nguyễn Phúc Ánh, cuối cùng giữa đường tòng
chinh thì bệnh tử, được Nguyễn Phúc Ánh truy tặng là Thái tử Thái phó Bi Nhu quận
công.
Năm 1789 Công nguyên, Nguyễn Phúc Ánh thừa cơ nội bộ
quân Tây Sơn chia rẽ trở về nước đoạt lại Gia Định. Dựa vào đồn điền ở đất Gia
Định, ngài luyện binh dưỡng sức và nhiệm dụng các sĩ quan Tây Dương huấn luyện
quân đội, xây đóng tàu thuyền, đúc tạo súng pháo, nhờ chỉnh đốn nên sức chiến đấu
đã tăng cao. Sau đó mới dần dần bình định toàn quốc.
Tháng 5 năm 1802 Công nguyên, Nguyễn Phúc Ánh xây đàn
Nam Giao tế trời, tự xưng hoàng đế tại Phú Xuân, đổi niên hiệu là Gia Long (vì
đất Gia Định và Vĩnh Long là những nơi đã ra sức cho họ Nguyễn chiến tranh phục
quốc nên định niên hiệu là Gia Long), đóng đô ở Phú Xuân, và sai sứ sang Thanh
triều Trung Quốc thỉnh cầu sách phong. Tháng 11 cùng năm, Nguyễn Phúc Ánh thống
nhất Nam–Bắc, đại cáo võ thành. Sau khi dâng tù binh lên Thái miếu, vua Cảnh Thịnh
và các con em tông thất của ông ta bị lăng trì xử tử, cho năm con voi xé xác.
Như vậy mà vẫn chưa tiêu giải mối thù hận chất chứa lâu năm trong lòng của Nguyễn
Phúc Ánh, ngài cho lấy đầu lâu của nam nữ cả họ nhà Nguyễn Tây Sơn tiêu biểu là
Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cất giam mãi mãi trong lao ngục, xương cốt thì hết thảy
bị giã nát ra tro. Triều Tây Sơn tung hoành Nam–Bắc suốt 25 năm cũng từ đó tan
tành theo mây khói.
3.
Thời kỳ đầu vương triều
Triều Nguyễn chia cả nước làm 23 trấn và 4 dinh, tại
Thăng Long lập Bắc Thành thống 11 trấn miền Bắc, miền Nam lấy thành Gia Định
làm trung tâm thống hạt 5 trấn miền Nam, địa phận kinh kỳ Thuận Hóa lập 4 dinh
trực lệ. Triều Nguyễn khởi nghiệp bằng vũ lực và cũng dùng vũ lực thống nhất
Nam–Bắc nên địa vị của vũ nhân rất cao, thủ trưởng ở các trấn trong cả nước đều
do vũ quan sung nhiệm, thủ trưởng trong triều cũng là Ngũ quân Đô thống chấp
chưởng binh quyền. Quan chế của triều đình dựa trên cơ sở cựu chế triều Lê tham
chiếu với thể chế triều Thanh, bãi bỏ chức Thừa tướng, cho lục bộ: Binh, Hình,
Lễ, Công, Lại, Hộ chủ lý quốc chính, đặt Đô sát viện để giám sát bá quan. Về mặt
pháp luật thì tham khảo chủ yếu theo Luật Đại Thanh để sửa chữa biên soạn thành
398 điều Luật thư Gia Long bao gồm
nhiều phương diện về quân sự, tài chính, hình pháp… Nguyễn Phúc Ánh đề cao Nho
học, ngài hạ lệnh xây dựng Quốc tử giám ở Huế, mở kỳ thi Hương để chọn sĩ quan
văn nhân. Đồng thời, Nguyễn Phúc Ánh hạ lệnh cho quần thần biên soạn Đại Nam Nhất thống Dư địa chí, Đại Nam Nhất thống chí, Đại Nam thực lục v.v là những pho sách lớn
thuộc dạng sử–địa quan phương, tất cả đều là có dụng ý phô trương khí phách của
một vương triều thống nhất. Ngoài ra, trong thời gian tại vị Nguyễn Phúc Ánh đã
thống nhất cân đong lường trong nước, hạ lệnh sửa đường đắp đê khắp các nơi, chế
định lệ giảm thuế và lập kho lương ở các trấn để dự trữ chẩn tế cho những lúc
thiên tai đói kém.
Vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn là Thánh Tổ Nguyễn
Phúc Đảm, sử xưng là vua Minh Mạng, vì nguyên Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh đã bệnh
mất trong thời kỳ chiến tranh phục quốc nên theo thứ tự xếp thứ tư vua Minh Mạng
kế vị, lúc bấy giờ đang ở tuổi 30 sung sức.
Vua Minh Mạng đã già dặn kinh nghiệm chính trị nhưng lại
cố chấp tự cao, là kiểu đế vương phong kiến điển hình. Ngài rất mực tôn sùng
Nho học và chăm lo chính sự, thường đốt đèn đọc tấu chương suốt đêm, mọi việc đều
phải do vua ngự bút châu phê rồi mới được thi hành. Lúc sinh tiền Minh Mạng thường
răn đe tả hữu: “Lòng người hay nghĩ đến việc trị chứ không muốn sinh sự gây biến.
Nhưng vào lúc tuổi trẻ sung sức nếu không gây dựng gì cả thì đến khi luống tuổi
sức yếu còn làm được gì nữa.” (thiên Cần chính trong Minh Mạng chính yếu) Ngài kế thừa con đường trị quốc của phụ thân, kiến
quốc hiệu là Đại Nam (大南),
một lòng muốn xây dựng Việt Nam trở thành một đại đế quốc cường thịnh giống như
Thanh triều. Ngài uốn nắn lại hệ thống quan liêu các cấp trung ương lẫn địa
phương, trung ương thì lập Nội các để lo các việc, lại noi gương Xu mật viện
triều Tống và Quân cơ xứ triều Thanh thành lập Cơ mật viện để xử lý những chính
vụ trọng đại, lại hoạch định quan chế cửu phẩm có chính có tòng; đổi các trấn địa
phương thành tỉnh; đối với các dân tộc thiểu số thì áp dụng “cơ chế lưu quan,”
do các phái viên triều đình giám sát cử chỉ của các tù trưởng. Triều Nguyễn từ
thời Gia Long đã thi hành chế độ quân chủ tập quyền, đặt ra mô thức thống trị
là “tứ bất” (bốn điều không lập), tức là: không lập Tể tướng, không đỗ Trạng
nguyên, không lập Hoàng hậu, không phong vương cho người ngoài họ. Các quyền lực
lập pháp, tư pháp, giám sát, quân chính, chấp pháp đều nằm trong tay Hoàng đế.
4.
Nước Pháp xâm lược
Từ khi Nha phiến chiến tranh giữa Trung–Anh bùng nổ, triều đình họ Nguyễn cũng cảm thấy “bọn mọi rợ lộng hành” (di địch xương cuồng), thời Minh Mạng trở đi mối quan hệ Pháp–Việt dần dần trở xấu, triều Nguyễn đã gặp phải sự thách thức của liệt cường Tây phương. Tháng giêng nông lịch năm 1847 (năm Thiệu Trị thứ 7), phái viên nước Pháp đến Việt Nam yêu cầu bỏ lệnh cấm giáo, khi ấy có một chiếc tàu cập đến Đà Nẵng cho rằng người Việt có ý muốn tập kích nên đã khai pháo bắn đánh chìm năm chiếc thuyền của Việt Nam. Sau sự kiện này Nguyễn đình tăng cường hải phòng, đặt bảy đồn lũy Trấn Dương ở Quảng Nam. Cùng năm, Anh quốc phái quân hạm đến Đà Nẵng đệ trình văn thư lên triều đình nhưng Nguyễn đình từ chối, trong lúc đang giằng co thì vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời, vua Tự Đức kế vị (ở ngôi từ năm 1847–1883). Trong những năm thời Tự Đức, Pháp quốc từng bước xâm phạm Việt Nam, từ năm 1856 (năm Tự Đức thứ 9) họ đã tấn công các nơi ở Đà Nẵng và Gia Định, đó là “khơi nguồn người Pháp chiếm Việt Nam.” Năm 1861 (năm Tự Đức thứ 14), quân Pháp dốc toàn lực xâm lược Nam Kỳ sau chiến sự với Trung Hoa. Năm 1862 (năm Tự Đức thứ 15), chúng buộc triều Nguyễn ký Điều ước Sài Gòn lần thứ nhất cắt nhượng Biên Hòa, Định Tường, Gia Định cho Pháp. Dưới áp lực quân sự của Pháp, từng có những chí sĩ cải cách như Nguyễn Trường Tộ đề xuất phương án với Tự Đức học tập kỹ thuật của Tây phương, cải thiện tố chất chính phủ v.v. tuy được vua Tự Đức chú ý nhưng gặp sự phản đối của quan viên trong triều và cũng bị bãi bỏ do Nguyễn Trường Tộ qua đời. Năm 1867 (năm Tự Đức thứ 20), Pháp xuất binh xâm chiếm ba tỉnh Tây Nam Kỳ (An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên), lại công hãm Hà Nội năm 1873 (năm Tự Đức thứ 26), Lưu Vĩnh Phúc nhận lời của Việt Nam đưa quân Cờ Đen liên hợp với quân Việt tác chiến, đánh cho quân Pháp đại bại ở vùng ngoại ô phía tây Hà Nội, chém đầu hơn một trăm người của thủ lĩnh Pháp – Thượng úy An-nghiệp (Garnier), thừa thắng thu phục Hà Nội. Sang năm, Việt Nam quốc vương trao cho ông chức Tam Tuyên Phó đề đốc, cho phép ông quản lý ba tỉnh Tuyên Hóa, Hưng Hóa, Sơn Tây. Nhưng quan viên Việt Nam lại có thái độ tiêu cực, đúng như sử gia Việt Cộng – Trần Huy Liệu – đã chỉ ra: “Quân Pháp tiến đến nơi nào thì quan lại triều Nguyễn ở nơi đó nghe tin đều đầu hàng.” Năm 1874 (năm Tự Đức thứ 27), Việt – Pháp ký kết Điều ước Sài Gòn lần thứ hai, nội dung là Pháp thừa nhận chủ quyền và độc lập của Việt Nam, còn triều Nguyễn thừa nhận toàn bộ Nam Kỳ là lãnh thổ của Pháp, cho mở các bến khẩu ở Hà Nội và Thi Nại tấn (tức thành phố Quy Nhơn) để thông thương, người Pháp vừa đoạt được lãnh thổ vừa giành lấy quyền đi lại và kinh doanh trong nước Việt Nam. Năm 1882 (năm Tự Đức thứ 35), Pháp lại xuất binh lần nữa để đánh Hà Nội, năm sau (1883 tức năm Tự Đức thứ 36, cũng là năm Hiệp Hòa thứ 1, rồi năm Kiến Phúc thứ 1) chiếm lĩnh cảng Thuận An, buộc triều Nguyễn ký kết Điều ước Thuận Hóa thừa nhận Việt Nam là nước bảo hộ của Pháp. Cùng lúc với việc triều đình họ Nguyễn từ từ nhường bước trước người Pháp, triều Thanh với nước Pháp đã triển khai cuộc chiến tranh Trung–Pháp về vấn đề Việt Nam, trong nước Việt Nam cũng dấy lên những cuộc đấu tranh chống Pháp kịch liệt.
5.
Thời kỳ Pháp thuộc
Năm 1885 Công nguyên, chiến tranh Trung–Pháp kết thúc,
triều Thanh ký kết hòa ước với Pháp quốc, thừa nhận quyền bảo hộ của nước Pháp
đối với Việt Nam. Hai bên Pháp–Việt thông qua Điều ước Thuận Hóa lần thứ hai xác lập sự cai trị bảo hộ của Pháp
quốc. Đến đây thì Việt Nam đã triệt để trở thành món đồ trong giỏ. Sau này
không chỉ Bắc Kỳ và Nam Kỳ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp mà ngay cả
Trung Kỳ của triều Nguyễn sở tại, tông thất họ Nguyễn cũng chỉ giữ được hoàng vị
trên danh nghĩa chứ không có chủ quyền gì nữa.
Năm 1887 Công nguyên, thực dân Pháp chia cắt ba bộ phận
của Việt Nam thành Nam Kỳ (Giao-chỉ-chi-na), Trung Kỳ (An Nam) và Bắc Kỳ (Đông
Kinh). Nam Kỳ trở thành “lãnh địa trực hạt,” Đông Kinh là “đất bán bảo hộ,”
Trung Kỳ là “đất bảo hộ.” Ba địa khu này gộp lại với nước Campuchia được gọi là
“Liên bang Đông Dương” Pháp thuộc. Tổng đốc Pháp là đầu não của Liên bang, đóng
tại Hà Nội. Năm 1893, Lào cũng được sáp nhập là lãnh địa bảo hộ của Liên bang. Năm
1899, Pháp ép Trung Quốc phải cho thuê Quảng Châu loan (nay là Trạm Giang, Quảng
Đông), cũng được trực hạt vào Liên bang.
Sau khi Đại chiến Thế giới lần thứ hai bùng nổ, Nhật Bản
thay thế địa vị thống trị của Pháp tại Đông Dương. Năm 1945 Công nguyên, sau
khi Nhật Bản đầu hàng, nước Pháp là kẻ bị hại trong cuộc bành trướng của
phát-xít đã quay trở lại với ý đồ tái khống chế khu vực này. Nhu cầu đấu tranh
của chủ nghĩa phản thực dân chung đã đoàn kết nhân dân ba nước chặt lại với
nhau. Năm 1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong hội nghị
trung ương lần VI của Đảng Cộng sản Đông Dương (bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng như các chi bộ đảng Cộng sản được thiết lập tại Lào và Campuchia) đã đề xuất
thiết tưởng thành lập “chính phủ Liên bang nước Cộng hòa Dân chủ Đông Dương.” Mục
đích chính thành lập “Liên bang Đông Dương” lúc bấy giờ là gì là nhằm liên kết
ba nước lại, đoàn kết nhất trí bắt tay đánh đuổi thực dân Pháp cút về quê. Năm
1954 Công nguyên dưới sự đại lực viện trợ của Trung Quốc, Việt Nam đã đánh đuổi
người Pháp, Liên bang Đông Dương Pháp thuộc giải thể.
6.
Thời kỳ thân Nhật
Trong thời kỳ Đại chiến Thế giới lần thứ hai được chuyển
sang cho Nhật Bản kiểm soát. Năm 1945 Công nguyên, sau Cách mạng tháng Tám tại
Việt Nam, hoàng đế cuối cùng triều Nguyễn bị ép thoái vị. Vị vua cuối cùng của
triều Nguyễn là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, niên hiệu Bảo Đại, thông thường được gọi
là Việt Nam Bảo Đại đế.
Tháng 6-1940, trong thời gian Đại chiến Thế giới lần thứ hai,
Pháp đầu hàng Đức, Nhật Bản thừa cơ đòi hỏi chính phủ Pétain thuộc chính quyền Vichy
rằng Đông Dương Pháp thuộc không được cho phép Trung Hoa Dân Quốc lợi dụng đường
sắt Vân Nam–Việt Nam để nhập khẩu vật tư, đồng thời phái khiển quân đội Nhật Bản
đến Việt Nam phong tỏa biên cảnh Trung–Việt. Song quân chiếm lĩnh Nhật Bản chưa
thể đuổi thực dân Pháp cai trị nên cũng cam kết không đụng chạm đến hoàng cung
của Bảo Đại tại Huế. Nhưng năm 1944 Công nguyên, sau khi quân đồng minh Mỹ–Anh
công chiếm Paris, chính phủ de Gaulle chuyển hướng phản đối các nước phe Trục,
thế là đêm ngày 9-3-1945 quân đội Nhật Bản thực hiện kế hoạch của Mitaka (Mỹ
Cao) lật đổ chính quyền của Pháp tại Đông Dương.
Sáng ngày 11-3-1945 Công nguyên (mùng 27 tháng giêng
năm Bảo Đại thứ 20 nông lịch), đại sứ Nhật Bản Yokoyama (Hoành Sơn) đến Huế cận
kiến Bảo Đại tại điện Thái Hòa, lấy cớ “châu Á thuộc về người châu Á” cổ động Bảo
Đại, thế là ngay chiều hôm đó Bảo Đại bèn triệu tập Lục bộ Thượng thư và vương
công thân quý phát bố Tuyên ngôn Độc lập
tuyên bố bãi bõ điều ước bất bình đẳng mà Việt Nam đã ký với Pháp năm 1884,
thoát ly nước Pháp bảo hộ, tuyên cáo Việt Nam thành lập quốc gia độc lập và tự
chủ, đồng thời gia nhập “Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á” (Đại Đông Á cộng
vinh quyển) do Nhật Bản đứng đầu, quyết định hợp tác với chính phủ Nhật Bản.
Tuy nhiên chỉ mấy ngày sau, 19-3 cùng năm, Thượng thư
Phạm Quỳnh là người phụ trách soạn Tuyên
ngôn Độc lập do có khuynh hướng thân Pháp nên vua Bảo Đại buộc phải cách chức
ông dưới sức ép của người Nhật Bản. Mấy tuần sau, Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt
cóc và giết hại. Bảo Đại lúc này hy vọng cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm đang ngụ
cư ở Sài Gòn quay trở lại chấp chính, nhưng sự đáp phục của người Nhật Bản là
không được đi tìm Ngô Đình Diệm. Nhằm bù lấp chỗ trống chính trị của đất nước, ngày
17-4, giáo sư Trần Trọng Kim kiều cư Singapore trở về Việt Nam xuất nhậm Thủ tướng
Nội các, thành lập một chính phủ thân Nhật và cũng là chính phủ Việt Nam đầu
tiên được tổ chức theo mô hình hiện đại (nhưng không có quân đội và cảnh sát). Cùng
lúc đó, người Nhật Bản lại âm thầm ủng hộ thân vương Cường Để đang ngấp nghé
ngôi vua (hậu duệ trực hệ của Nguyễn triều Thế Tổ Gia Long đế), chờ một khi cần
sẽ bài trừ Bảo Đại để ông lên nắm chính quyền.
Ngày 18-6 cùng năm, vua Bảo Đại tuyên bố thành lập Đế
quốc Việt Nam thống nhất, bao gồm Đông Kinh Bắc Bộ, An Nam Trung Bộ và Giao-chỉ-chi-na
Nam Bộ, thêm tôn hiệu là Việt Nam hoàng đế bệ hạ.
Đế quốc Việt Nam trên danh nghĩa là khôi phục toàn bộ
chủ quyền lãnh thổ vốn có, bao gồm cả Nam Kỳ, nhưng về các phương diện ngoại
giao bên trong, Đế quốc Việt Nam chỉ là chính quyền bù nhìn của quân Nhật. Nó
không được quốc tế thừa nhận rộng rãi, cũng không có khả năng xử lý được gì ở
trong nước, đặc biệt là sự bó tay bất lực trước nạn đói xảy ra tại Đông Kinh hồi
bấy giờ.
7.
Diệt vong
Tháng 8-1945 Công nguyên, Nhật Bản đầu hàng quân Đồng
minh, chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật trở nên nguy ngập. Ngày 19-8 cùng năm,
Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh đã cướp chính quyền tại Hà Nội,
thành lập chính phủ Cách mạng lâm thời. Ngày 23-8 cùng năm, chính phủ Cách mạng
lâm thời của Hồ Chí Minh đánh điện hàm đến Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Lúc
này đại sứ Nhật Bản Yokoyama kiến nghị Bảo Đại sử dụng quân lực Nhật Bản để có
thể tiêu diệt Việt Minh một cách dễ dàng, nhưng Bảo Đại không chịu sử dụng sức
mạnh bên ngoài để đồ sát người Việt Nam nên cự tuyệt kiến nghị của Yokoyama.
Ngày 25-8 cùng năm, ông hạ chiếu tuyên bố thoái vị. Ngày 30-8 cùng năm, Bảo Đại
cử hành nghi thức thoái vị trước Ngọ Môn của vương cung Huế, đem quốc tỷ và bảo
kiếm tượng trưng cho quyền lực giao cho đại biểu Việt Minh Trần Huy Liệu, Nguyễn
Lương Bằng và Cù Huy Cận, ông tuyên bố: “Nguyện
vi độc lập quốc chi dân, bất tác nô lệ đế vương.” Bảo Đại từ bỏ tư cách làm
vua và tên họ Nguyễn Phúc Điển, đổi tên cũ là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy. 2 ngày
sau, ngày 2-9 cùng năm, chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành
lập tại Hà Nội, Bảo Đại trở thành “công dân đứng đầu” của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, ngày 11-10 cùng năm, Hồ Chí Minh tuyên bố Bảo Đại là “cố vấn tối cao”
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đế quốc Việt Nam và nhà Nguyễn tuyên bố diệt
vong.
Nhận xét
Đăng nhận xét