Các chính quyền quy tụ bí mật với mong muốn xây dựng chính quyền của họ, vô tình hay hữu ý vì ra đời trong thời đại có chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đã bị quy kết là những lực lượng “phản động” và bị nhà nước Trung Cộng ra sức đàn áp. Những thực thể chính quyền này đã hoạt động trong lãnh thổ của Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa, sau đó đã bị chính phủ các cấp, cơ quan tư pháp và quân đội Trung Cộng thẳng tay tiêu diệt. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về quá trình hình thành và bị diệt của các chính quyền này.
Giai đoạn trước năm 1960
1. Thượng Minh quốc (尚明國)
Thời gian tồn tại: 1937–1951 (14 năm)
Hoàng đế: Lưu Kim Lan (劉金蘭)
Niên hiệu: Thượng Minh (尚明)
Thủ đô dự định: Trung Kinh (tức Bắc Kinh)
Căn cứ địa: huyện Oa Dương, tỉnh An Huy
Thượng Minh Quốc là chính quyền quy tụ bí mật do thủ lĩnh Thiên Môn đạo (天門道) tên Lưu Kim Lan, còn gọi là Lưu Cẩm Lan (劉錦蘭), tên thật là Lưu Hương Lan (劉香蘭), biệt danh là Hương Sơn (香山), hoá danh là Chu Lưu (朱劉). Thiên Môn đạo còn gọi là Thần Sư đạo (神師道), vì nghe nói khi truyền đạo cho ai thì cả gia đình người đó đều phải theo đạo, sau khi Trung Quốc giải phóng thì chuyển từ hoạt động công khai sang bí
mật, có tên khác là Quan Môn đạo (關門道). Năm 1949, Lưu Kim Lan thành lập quân chín lộ quân cứu dân cứu quốc, ngày 5-5 gây cuộc bạo động ở Oa Dương (渦陽) phản đối sự cai trị của đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngày 16-03-1951, Lưu Kim Lan bị bắt, và ngày 23-06-1953 bị xử quyết tại Mông Thành.
2. Thuận Chính quốc (順政國)
Thời gian tồn tại: đầu 1946–16-8-1950 (5 năm)
Hoàng đế: Trương Thuận Bảo (張順寶)
Căn cứ địa: Ngộ Tiên đường số 41 hẻm 384 đường Uy Hải,
TP Thượng Hải, TQ.
Thuận Chính quốc do thủ lĩnh Tại Lý giáo (在理教) là Trương Thuận Bảo thành lập tại Thượng Hải. Đầu năm 1946, Trương Thuận
Bảo đã mua căn bất động sản tại địa chỉ số 41 hẻm 384 đường Uy Hải, TP Thượng Hải,
TQ, đặt tên ngôi nhà là Ngộ Tiên đường (遇仙堂). Ông mượn danh nghĩa
Phật Tổ nói mình là sao Tử Vi hạ phàm phái làm chân mạng thiên tử, xưng đế tại
Ngộ Tiên đường, bắt đồ chúng phải làm lễ quỳ mọp, xưng hô vạn tuế, đặt quốc hiệu
là Thuận Chính, phong chức tước cho các “công thần khai quốc.” Trương Thuận Bảo
còn đề nghị “đúc tiền bằng bạc để bổ sung quốc khố,” trong vòng 2 năm phải “hoàn
thành đại nghiệp, vững yên thiên hạ.” Năm 1950, Trương Thuận Bảo cho khắc lại
ngọc tỷ, ngự ấn, phân phong chức Đại nguyên soái (大元帥), Đốc đạo ngự sư (督導御師), tả hữu Thừa tướng (左右丞相), Ngự văn thư (御文書), Phiên đài (藩台), Tổng binh (總兵)… Ông ta đồ mưu tập hợp binh mã trăm vạn, kêu gọi đồ chúng bạo động vũ
trang, cất ngọn cờ “Khởi nghĩa Bảo hoàng” (保皇起義). Đứng đầu “triều đình”
là Tả Thừa tướng Lưu Khải Thái (劉啟泰) và Hữu Thừa tướng Dịch
Vạn Toàn (易萬全).
Trương Thuận Bảo lệnh cho Nguyên soái các nơi
thu thập nhân sự, cướp tài sản báu vật, dò thám tình báo quân sự, định cướp khí
giới của quân Giải phóng Trung Quốc, thành lập “căn cứ du kích,” mở rộng thế lực.
Ngày 16-8-1950, “hoàng đế” Trương Thuận Bảo và các “quan đại thần” bị cảnh sát
bắt giữ tại Ngộ Tiên đường, căn nhà đã bị phá sập hoàn toàn, lãnh thổ nước Thuận
Chính bị giải thể.
3. Đại Trung Hoa Phật
quốc (大中華佛國)
Thời gian tồn tại: 1947–1953 (6 năm)
Hoàng đế: Thạch Đỉnh Vũ (石頂武)
Thủ đô danh nghĩa: Tương Đàm (湘潭)
Căn cứ địa: xã Bài Đầu, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam,
TQ
Quốc kỳ:
Đại Trung Hoa Phật quốc hoạt động ở dải Hồ
Nam, Giang Tây, do thủ lĩnh của tổ chức Tam Triều Phổ Độ (三期普渡) là Thạch Đỉnh Vũ thành lập.
Gia tộc họ Thạch của ông ta vốn đã có “truyền
thống” hoạt động kết xã bí mật. Ngay từ năm Quang Tự triều Thanh, ông nội của hắn
là địa chủ Thạch Chấn Thuận (石振順) người Hồ Nam tự xưng
là Nhiên Đăng Cổ Phật (燃燈古佛) tái thế, sáng lập Đạo
giáo Tam Triều Phổ Độ tại Tương Đàm, thiết lập Phật đàn và thỉnh người biên soạn
cuốn Tam Triều Phổ Độ lịch sử Đại khái Thập ngũ chương (三期普渡歷史大概十五章), trở thành kinh điển bắt buộc của người nhập đạo, và
kêu gọi tuyên bố rằng những ai nhập đạo sẽ tránh khỏi được tất cả những tai nạn
lúc sinh thời, sau khi chết sẽ lên cõi trời thành tiên, thu hút những người có ý
muốn tiêu tai giải nạn nhập đạo làm đồ chúng. Sau khi Thạch Chấn Thuận chết,
con là Thạch Hoài Trân (石懷珍) kế thừa y bát của
cha lên làm đạo chủ, tự xưng là “Đỉnh Bàn Lão Tổ” (頂盤老祖) chuyển thế. Thạch
Hoài Trân chết, con là Thạch Đỉnh Vũ kế vị, xưng là “Lưu tiên sinh” (劉先生) chuyển thế, lấy hiệu là Phổ Hành Pháp Độ chủ (普衡法渡主), đưa Tam Triều Phổ Độ
vào thời kỳ toàn thịnh.
Thạch Đỉnh Vũ là người ở trấn Hoa Thạch (花石鎮), huyện Tương Đàm, xuất thân đại địa chủ, trình độ văn hoá tốt nghiệp
Cao trung, từng đầu quân cho Quốc dân đảng năm 17 tuổi, tích cực với hoạt động
chống Cộng, từng tham gia vào tổ chức đặc vụ quân thống của Quốc dân đảng, được
phong làm xã trưởng của “Xã phục vụ văn hoá.” Sau này làm huyện hương bộ huyện
Tương Đàm của Quốc dân đảng, Uỷ viên đảng bộ khu 2, và thư ký chi bộ của khu. Thạch
Đỉnh Vũ cho xây dựng cơ sở lập giáo của mình, đặt tên là “Uy Vũ cung” (威武宮), tự phong làm Thống soái, nắm Phật ấn trong tay, lập ra chức quyền thăng,
giáng, biếm, thưởng. Ông lập ra đạo quy, không có phép ai làm trái, kẻ trái luật
sẽ bị thiên mệnh trừng phạt. Đứng đầu “Uy Vũ cung” là “đàn chủ,” dưới “đàn chủ”
là các “kinh thủ,” tức là người phụ trách quản lý ở một huyện hay một khu vực.
Tại Nguyên Đầu am (原頭庵), Thạch Đỉnh Vũ thành
lập Phổ Độ Tích Thiện đường (普渡積善堂), tự dựng chuyện nói
với đồ chúng rằng số trời đã định Viên Thế Khải (袁世凯) chỉ làm hoàng đế 83
ngày, còn chính ông mới là hoàng đế do trời cao chỉ định. Thạch Đỉnh Vũ còn lợi
dụng thân phận làm cán bộ trong Quốc dân đảng để hợp tác với người trong đảng này.
Họ Thạch đã lôi kéo Tổ trưởng đặc vụ quân thống kiêm đoàn trưởng quân Quốc dân đảng
và là Tư lệnh quân tự vệ cứu quốc chống Cộng ở biên khu Tương Cống Ngạc là Trần Đức Đàm (陳德炎) nhập giáo, sách
phong ông Trần làm Phật vị chỉ đứng sau mình, hiệu là Vô Thượng Vương Phật (無上王佛).
Sau đó, Thạch Đỉnh Vũ đã cùng với Trần Đức Đàm
sử dụng danh vọng của mình để dụ dỗ những thành phần trong đảng chính quyền bấy
giờ, gồm có người đồng đảng đồng nghiệp với Trần Đức Đàm là Trương Khải Phương
(張啟方), Bộ trưởng quân chính Âu Dương Lễ (歐陽禮), Chủ tịch tỉnh Hồ Nam Triệu Hằng Dịch (趙恆惕), Uỷ viên Uỷ ban quân
sự Quốc dân đảng Lý Huống Sinh (李況生), Xã trưởng tờ báo Đại
Chúng – Triệu Tử Bình (趙紫屏) và cán bộ quân đội Âu
Dương Kiệt (歐陽傑), mời những người đó
đến tham dự hội thảo phát triển Tam Triều Phổ Độ, dẫn đến sự xem trọng cao độ của
Triệu Hằng Dịch, thậm chí trong hội thảo đó Triệu Hằng Dịch đã viết 4 chữ thân
tặng là “Mai đầu khổ can” (埋頭苦幹: chăm chỉ vùi đầu) để
khích lệ, đồng thời phái đoàn trưởng đoàn bảo an đến Tương Đàm thoả thuận với
Thạch Đỉnh Vũ và Trương Khải Phương, muốn dùng danh nghĩa của đoàn bảo an và chính
quyền địa phương dán cáo thị trước cửa Phổ Độ Tích Thiện đường rằng “cơ quan từ
thiện, nghiêm cấm đóng binh” để răn đe đồ chúng của Tam Triều Phổ Độ. Thạch Đỉnh
Vũ đã thông qua mối quan hệ với người lãnh đạo quân thống địa phương là Hàn
Trung Cự (韓中巨) để liên lạc với chính
quyền thành phố Trường Sa xin giấy phép làm hồ sơ đăng ký tôn giáo cho tổ chức
Tam Triều Phổ Độ, sau đó hối lộ cho xã trưởng tờ báo Đại Công là Trương Bình Tử
(張平子) để đăng báo viết bài ca tụng đạo Tam Triều Phổ Độ.
Nhờ có sự ủng hộ to lớn của các cấp chính quyền
tỉnh, thị và huyện, thậm chí là đảng viên, quân đội, đặc vụ, Thạch Đỉnh Vũ đã
nhân cơ hội phát triển tổ chức hội đạo môn của mình, mở rộng thế lực của Tam
Triều Phổ Độ đi khắp Trường Sa, Thù Châu và những thành phố khác. Thạch Đỉnh Vũ
ngang nhiên tự xưng là “Hoành Giáo Phật Vương” (宏教佛王), “Phổ Độ Hành chủ”
(普渡衡主), cho xây dựng “Thu Nguyên cung” (收原宮) tại Trường Sa và “Tuyên Hoá cung” (宣化宮) tại Thù Châu, như vậy
đã dần dần thiết lập 5 cung, giao cho 5 người làm chủ mỗi cung, lần lượt là: Thành
Thứ (成恕), Trần Thái Lai (陳泰來), Bành Lương Ký (彭良驥), Trương Khải Phương và Tân Thư (賓書), lấy Phổ Độ Tích
Thiện đường làm “vương cung,” như vậy tổ chức đã dần dần hoàn thiện. Trong 4 năm
tại vị, Thạch Đỉnh Vũ đã phát triển thế lực, tạo dựng tà thuyết mê tín thu hút đồ
chúng nhập đạo, mở rộng địa bàn trên khắp 20 huyện thành của Hồ Nam và cả An
Huy, Giang Tây, tổng cộng đã gom được 30 ngàn đạo đồ.
Sau khi thu hút đồ chúng và quyên góp tiền của,
Thạch Đỉnh Vũ cho thành lập “Luyện thuỷ ban” (練水班), tổng cộng đã có 15
ban. Đến năm 1943, Thạch Đỉnh Vũ đặt lãnh đạo mỗi ban là 2 viên “tả phụ hữu bật”
(左輔右弼), bắt đầu có chí ôm mộng làm hoàng đế. Sau đó, Thạch Đỉnh
Vũ lệnh cho Trương Khải Phương đi khắp các cơ sở giáo phái để tung tin tuyên
truyền rằng:
- Thạch Đỉnh Vũ là chân mạng thiên tử xuất thế,
thiên hạ sẽ thái bình, tương lai quy về nhà Phật Tam Triều Phổ Độ ta chưởng quản
thiên hạ, bọn yêu vương sẽ bị tuyệt diệt, vạn quốc đến chầu.
Sau đó tuyên bố Thạch Đỉnh Vũ chính là “Vũ Vương”
(武王).
Mùa đông năm 1947, Thạch Đỉnh Vũ mượn cơ hội
lập pháp hội “âm siêu” tại thành phố Trường Sa, nhiều lần mật mưu kiến quốc xưng
đế với nhóm Trần Đức Đàm, Trương Khải Phương, chính thức lấy quốc hiệu là “Đại
Trung Hoa Phật quốc,” Thạch Đỉnh Vũ sẽ làm hoàng đế. “Bộ tổng tư lệnh quân Phật
quốc” tạm thời sẽ đặt tại Tương Đàm. Chính năm đó, Thạch Đỉnh Vũ làm lễ đăng cơ
xưng đế hiệu, lấy “Hoành hạnh Phật kỳ” (黃杏佛旗) làm quốc kỳ, phong
Vương Dụ Khế (王裕契) làm Tả Thừa tướng, Trần
Thái Lai làm Hữu Thừa tướng, Khuất Chiêu Bạch (屈照白) làm Bảo giá tướng
quân, Trương Khải Phương làm Quân sư. Đồng thời cho tổ chức quân đội, gọi là “quân
Hộ quốc Đại Trung Hoa Phật quốc,” phong Trần Đức Đàm làm Tổng Tư lệnh, em trai
của Thạch Đỉnh Vũ là Thạch Khắc Quân (石克鈞) làm Phó tổng Tư lệnh.
Quân đội được chia ra làm tổng đội, đại đội, trung đội, phân đội và ban. Quân lính
phần lớn là đạo đồ xuất thân từ thành phần dân nghèo khổ, lưu manh, trong quân
có kỷ luật, quân kỳ, quân phục, tích trữ hoả dược đàng hoàng.
Tại xã Bài Đầu, huyện Tương Đàm, Thạch Đỉnh Vũ
cho xây dựng “hoàng cung” với diện tích hơn 10 ngàn m2, hơn 160 phòng,
sách lập hoàng hậu, 3 vị phi tần, 10 nữ công, 30 nam công, còn nuôi vệ đội hoàng
gia. Cung điện có tường bao quanh, bên trong có Phật đá, ngựa đá, sư tử đá được
bài trí, còn Nguyên Đầu am cách “hoàng cung” 100 dặm Tàu là nơi “hoàng đế” thiết
triều, cũng là cơ quan chỉ huy quân sự. Cứ vào tháng giêng, tháng 5, tháng 12 mỗi
năm, tức là những tháng thuộc ngày giỗ của ông nội, của cha và sinh nhật chính
mình, Thạch Đỉnh Vũ cử hành lễ hội “Tiên Phật thọ kỳ” (仙佛壽期), gọi tắt là Tiên Phật
hội, Thạch Đỉnh Vũ sẽ đội mão vua xung thiên, khoác long bào ngồi trên long kỷ,
tiếp nhận sự quỳ lạy của tín đồ, cứ mỗi lần tổ chức yến hội này có thể tiêu tốn
hàng vạn đồng Hoa tệ thời bấy giờ.
Tháng 8 năm 1949, quân Giải phóng Trung Quốc đánh
vào Tương Đàm, Thạch Đỉnh Vũ vẫn ngoan cố chống trả. Trần Đức Đàm làm Tổng Tư lệnh
trực tiếp chỉ huy cuộc chiến, chủ trương đánh du kích và tấn công bất ngờ vào hành
dinh của địch, nhưng bị cơ quan công an huyện Tương Đàm phát hiện, bẻ gãy kế hoạch,
không thể thực hiện. Sau đó Thạch Đỉnh Vũ trở về quê ở Bài Đầu Lĩnh để lãnh đạo
“kháng chiến.” Thạch Đỉnh Vũ đã nhiều lần bày mưu tính kế, thậm chí thường xuyên
“đi công tác” ở Trường Sa, Thù Châu, Lễ Lăng và Lựu Dương, dùng hình thức “hầu đồng”
để ban “thánh dụ,” lệnh cho Thành Thứ đi rải truyền đơn phản động, chửi rủa chính
sách của đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí nói rằng quân Giải phóng là Hồng quân,
chỉ là đỏ hồng nhất thời, đến mùng 7 tháng 7, một trận gió đen sẽ thổi bay toàn
bộ màu đỏ của quân Giải phóng đi. Thậm chí đi đến các thành phố tung tin:
- Quân đội Tưởng Giới Thạch đã lên bờ ở Phúc
Châu, chuẩn bị sẽ cho nổ tưng bừng Thượng Hải, Quốc dân đảng sẽ trở lại.
Thạch Đỉnh Vũ còn khuyên đạo chúng “tồn thiện
tâm,” đừng “sinh ác niệm,” đợi đến “mùa xuân năm thứ hai Dần” sẽ “thấy vị vua
thái bình.” Ông còn nói:
- Đến ngày đó Phật quang sẽ xán lạn vô vàn, “Vô
Lượng Vương Phật” sẽ lớn hơn cả huyện trưởng, “Vô Thượng Vương Phật” sẽ sáng hơn
cả tỉnh trưởng.
Mùa đông năm 1952, quân đội trung ương và quân
uỷ tỉnh Hồ Nam của Trung Cộng phát động thủ tiêu hội đạo môn, dấy lên cao trào đợt
2 đàn áp quân phản động. Cơ quan công an và quân đội được điều đến huyện Tương Đàm,
công bố tội trạng của Thạch Đỉnh Vũ và kêu gọi dân chúng giác ngộ chính trị, không
đi theo “bọn xấu” làm loạn, phản động chống chính quyền. Cuộc càn quét của công
an và quân đội Trung Quốc cuối cùng đã bắt sống Thạch Đỉnh Vũ cùng với các “hoàng
hậu,” “hoàng phi” của ông ta, thu giữ 2 khẩu súng ngắn, 1 khẩu súng máy hạng nhẹ
kiểu Tiệp-khắc, 16 khẩu súng trường, hơn 2000 trái bom, ngoài ra ở chỗ Trần Đức
Đàm và Thành Thứ cũng thu giữ khá nhiều vũ khí được cất giấu. Toàn bộ long bào
phượng quán, ngọc tỷ, kinh sách, tài liệu, vàng bạc, tiền giấy v.v… đều bị tịch
thu.
Mùa đông năm 1953, hơn 10 ngàn người của giáo
phái, trong đó có Thạch Đỉnh Vũ, bị xét xử trong toà án nhân dân huyện Tương Đàm,
bản án cho tất cả là tử hình. Thạch Đỉnh Vũ bị xử bắn tại pháp trường. Những thành
phần khác trong đạo Tam Triều Phổ Độ được xem xét giảm nhẹ mức án, phần tử tàn
dư của đạo vẫn tìm cách khôi phục trong âm thầm. Đầu năm 1980, tàn dư của Tam
Triều Phổ Độ đã ủng lập con trai của Thạch Đỉnh Vũ là Thạch Kim Hâm (石金鑫) lên làm vua, với ý định “phục quốc.” Triều đại của Thạch Đỉnh Vũ được
gọi là Đại Trung Hoa Phật Tiên Chủ, còn Thạch Kim Hâm là Hậu Chủ, thành lập Hậu
Đại Trung Hoa Phật quốc vào năm 1983, nhưng cũng bị chính quyền Trung Cộng tiêu
diệt luôn vào năm đó.
(Xem kỳ 2)
Nguyễn Thành Sang sưu tầm.
Nhận xét
Đăng nhận xét