TIỂU THUYẾT VĂN HỌC CỔ ĐIỂN TRUNG HOA
oooOOOooo
PHONG THẦN
DIỄN NGHĨA
封神演義
Tác giả.
HỨA TRỌNG LÂM
(nhà Minh)
Việt dịch. Cự Lang
Hồi thứ 1.
VUA TRỤ DÂNG HƯƠNG ĐỀN NỮ OA
Có bài thơ xưa nói:
Hỗn độn mới chia sinh
Bàn Cổ,
Thái cực, Lưỡng nghi, rồi Tứ tượng.
Tí Trời, Sửu Đất, Dần ra Người,
Ông Hữu Sào dẹp nạn thú dữ.
Ông Toại Nhân làm lửa nấu ăn,
Vua Phục Hy viết quẻ âm dương.
Vua Thần Nông nếm trăm loại cỏ,
Hiên Viên bày lễ nhạc hôn phối.
Muôn loài nhờ Ngũ Đế Thiếu Hạo,
Vua Vũ trị thủy dẹp sóng to.
Yên bình hưởng nước bốn trăm tuổi,
Vua Kiệt vô đạo lộn trời đất,
Ham mê Muội Hỷ ưa chè chén,
Đất Bạc Thành Thang rửa nhuốc nhơ,
Đuổi kẻ bạo ngược ra Nam
Sào,
Trăm họ thỏa tình được cứu vớt.
Ba mươi mốt đời truyền Ân Trụ,
Nhà Thương đứt mạng như dây đàn:
Giềng mối rối ren luân thường hỏng,
Giết vợ hại con tin lời gièm,
Tanh tưởi cung cấm mê Đát Kỷ,
Sái Bồn, Bào Lạc hại tôi trung,
Lộc Đài thuế dịch muôn dân khổ,
Tiếng oán nơi nơi thấu trời cao,
Moi tim can gián quăng lửa đốt,
Mổ bụng moi thai buổi sớm mai.
Tin bọn gian tà hư triều chính,
Thầy giỏi đuổi đi biết về đâu.
Chẳng lo đền xã, tông miếu bỏ,
Gắng lòng dâm dục với đàn ca,
Gần kẻ tội nhân như mắc lưới,
Cùng hung cực ác tợ diều hâu.
Tây Bá chầu Thương giam Dũ Lý,
Vi Tử ôm đồ chạy hút heo.
Trời cao nổi giận đổ vạ tai,
Khác nào nước biển đáy sâu cùng.
Thiên hạ tan hoang vạn người oán,
Có ông Tử Nha tiên chốn người,
Suốt ngày thả câu chờ minh chúa,
Gấu Bay vào mộng săn ruộng Kì,
Cùng theo nhà Chu lo triều chính,
Ba phần quy phục những đến hai.
Đại nghiệp Văn Vương chưa kịp thành,
Vũ Vương giỏi thuật ngày càng mạnh.
Hội lớn Mạnh Tân tám trăm nước,
Bắt kẻ hung tàn đền tội khiên.
Bình minh Giáp Tí trận Mục Dã,
Tiến lên xoay
ngược ngọn giáo mâu.
Trăm họ cúi đầu tung hô lạy,
Máu chảy đầu rơi tựa suối phun.
Khoác áo đạo tu bình thiên hạ,
Cơ nghiệp Thành Thang rạng rỡ thêm.
Chăn ngựa Hoa Sơn ngừng chinh chiến,
Mở nước Chu ta tám trăm năm.
Treo cờ Thái bạch, Trụ Vương chết,
Tướng sĩ trận vong khuất u hồn.
Trời đưa kẻ hiền tôn Thượng phụ,
Trên đài Phong thần trải giấy hoa,
Anh linh lớn nhỏ theo ngôi thứ,
Truyện kể Thương–Chu đồn xưa nay.[1]
Thành Thang là hậu duệ của Hoàng Đế
(黃帝), mang họ Tử (子). Thuở đầu,
bà vợ thứ của vua Đế
Khốc (帝嚳)
là Giản Địch
(簡狄) đi cầu con ở đền Cao Môi (高禖), trông thấy điềm lành nuốt trứng chim huyền điểu bèn sinh
ra ông Khế (契). Ông Khế làm chức Tư đồ
(司徙) phò hai vua Đường
(唐 – tức vua Nghiêu)
và Ngu (虞 – tức vua Thuấn),
nhờ dạy dân có công nên được phong ở đất Thương
(商), truyền ngôi mười
ba đời thì sinh ra Thái Ất (太乙),
đó chính là Thành Thang.
Thành Thang nghe ông Y Doãn (伊尹) cày ruộng ở cánh đồng
Hữu Sằn (有莘) mà vui với đạo của Nghiêu–Thuấn, là một bậc đại
hiền nên mới đem tiền và gấm lập tức sai sứ ba lần sang hỏi thăm, nhưng không
dám dùng nên mới dâng cho thiên tử. Vua Kiệt (桀) vô đạo, tin lời gièm mà đuổi người hiền, không biết dùng người, Y Doãn
lại quay về với Thành Thang.
Sau vua Kiệt ngày càng hoang
dâm, giết người bề tôi ngay thẳng là Quan Long Phùng (關龍逢), muôn dân chẳng ai dám nói thẳng nữa, Thành Thang mới sai sứ vào kêu khóc.
Vua Kiệt nổi giận giam tù Thành Thang ở Hạ Đài (夏台).
Về sau Thành Thang được thả
ra rồi trở về nước, ra đến biên giới, gặp người đang giăng lưới bốn mặt mà cầu
khấn rằng:
- Trên trời sa xuống, dưới đất
chun lên, từ bốn phương tới tất cả đều mắc vào lưới của ta!
Thang bèn gỡ ba mặt bên kia
ra, chỉ cắm vào một mặt thôi, rồi khấn lại rằng:
- Muốn bên trái thì bên trái,
muốn bên phải thì bên phải, muốn lên cao thì lên cao, muốn đi xuống thì đi xuống,
còn không muốn sống thì hãy vào lưới của ta!
Vùng Hán Nam (漢南) nghe thế bèn khen ngợi:
- Đức của ông Thang rất cao cả!
Thế là quy phục theo Thành
Thang hơn bốn chục nước.
Vua Kiệt càng lúc càng bạo
ác, dân không sống nổi. Y Doãn phò Thành Thang làm Tướng quốc bèn thảo phạt vua
Kiệt, đày Kiệt chạy ra đất Nam Sào (南巢).
Chư hầu bèn mở đại hội, ông Thang rút lui nhún nhường ngôi cho chư hầu, song
chư hầu đều suy tiến ông Thang làm thiên tử, bởi thế nên Thang mới lên ngôi,
đóng đô ở đất Bạc (亳).
Ất Mùi năm thứ nhất, vua
Thang tại vị, dẹp bỏ chính sự bạo ngược của vua Kiệt, thuận theo lòng vui sướng
của dân, xa gần đều theo về vua cả. Bởi vua Kiệt vô đạo nên hạn hán suốt bảy
năm, Thành Thang bèn cầu đảo nơi rừng dâu, trời liền giáng mưa to.
Vua lại lấy kim loại ở đất
Trang Sơn (莊山) đúc tiền, cứu mạng cho dân, nhân dân vui sướng
bèn làm bài nhạc “Đại hoạch,” (大濩) hoạch tức là hộ, ý nói vua
Thang khoan dung, nhân hậu có đức lớn, có thể cứu hộ sinh dân vậy.
Vua Thành Thang ở ngôi mười
ba năm thì băng hà, thọ một trăm tuổi, hưởng nước sáu trăm bốn mươi năm, truyền
đến đời Thương Thụ (商受) thì dứt:
1. Thành Thang (成湯);
2. Thái Giáp (太甲);
3. Ốc Đinh (沃丁);
4. Thái Canh (太庚);
5. Tiểu Giáp (小甲);
6. Ung Kỷ (雍己);
7. Thái Mậu (太戊);
8. Trọng Đinh (仲丁);
9. Ngoại Nhâm (外壬);
10. Hà Đản Giáp (河亶甲);
11. Tổ Ất (祖乙);
12. Tổ Tân (祖辛);
13. Ốc Giáp (沃甲);
14. Tổ Đinh (祖丁);
15. Nam Canh (南庚);
16. Dương Giáp (陽甲);
17. Bàn Canh (盤庚);
18. Tiểu Tân (小辛);
19. Tiểu Ất (小乙);
20. Vũ Đinh (武丁);
21. Tổ Canh (祖庚);
22. Tổ Giáp (祖甲);
23. Lẫm Tân (廩辛);
24. Canh Đinh (庚丁);
25. Vũ Ất (武乙);
26. Thái Đinh (太丁);
27. Đế Ất (帝乙);
28. Trụ Vương (紂王).
Trụ Vương là con trai thứ ba
của Đế Ất. Đế Ất sinh ba người con: trưởng là Vi Tử Khải (微子啟), thứ là Vi Tử Diễn (微子衍), ba là Thọ vương (壽王). Bởi Đế Ất đi dạo ở ngự
viên, mang theo các bề tôi văn võ thưởng ngoạn hoa mẫu đơn, lúc đó cây cột kèo ở
Phi Vân các (飛雲閣) bị sập, Thọ vương bèn ôm kèo đổi cột, sức khỏe
mạnh không ai sánh kịp; nhân đó Thủ tướng Thương Dung (首相商容), thượng đại phu Mai Bá (梅伯), Triệu Khải (趙啟) v.v… bèn dâng bản xin lập Thọ làm Đông cung, Đế
Ất nghe theo mới cho con út Thọ vương làm Thái tử. Sau Đế Ất ở ngôi ba chục năm
thì băng, gửi gắm con côi cho Thái sư Văn Trọng (太師聞仲), theo di chiếu lập Thọ vương làm thiên tử, gọi là Trụ Vương, đóng đô ở
đất Triều Ca (朝歌).
Trong triều bấy giờ văn thì
có Thái sư Văn Trọng, võ thì có Trấn quốc Vũ Thành vương Hoàng Phi Hổ (鎮國武成王黃飛虎), văn đủ để an bang, võ đủ để định quốc. Chốn hậu
cung bà vợ cả là Trung cung (中宮) hoàng hậu Khương thị (姜氏), Tây cung (西宮) phi Hoàng thị (黃氏), Thanh Khánh cung (馨慶宮) phi Dương thị (楊氏), tam cung hậu phi đức tính đều trinh tiết yên tĩnh, nhu hòa hiền thục.
Trụ Vương ngồi hưởng thái
bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tứ di quỳ lạy,
tám phương quy phục, tám trăm trấn chư hầu hết thảy đều về chầu nhà Thương: có
bốn lộ đại chư hầu suất lãnh tám trăm tiểu chư hầu là Đông Bá hầu Khương Hoàn Sở
(東伯侯姜桓楚) ở đất Đông Lỗ (東魯), Nam Bá hầu Ngạc Sùng Vũ (南伯侯鄂崇禹),
Tây Bá hầu Cơ Xương (西伯侯姬昌), Bắc Bá hầu
Sùng Hầu Hổ (北伯侯崇侯虎), mỗi một trấn chư hầu lãnh hai trăm trấn tiểu
chư hầu, tổng cộng là tám trăm trấn chư hầu thuộc về nhà Thương.
Trụ Vương năm thứ bảy, tháng
hai mùa xuân, chợt có tin báo đến Triều Ca rằng bảy mươi hai lộ chư hầu Bắc Hải
(北海) là bọn Viên Phúc Thông (袁福通) làm phản. Thái sư Văn Trọng dâng tờ sắc xin đi
đánh phía Bắc. Không nói đến nữa.
Một hôm, Trụ Vương lên điện
chầu sớm, các quan văn võ họp bày. Chỉ thấy:
Khí mây lành tràn ngập, quân vương ngự trên điện
Kim loan; Ánh sáng rỡ vòng quanh, văn võ dàn trước thềm Bạch ngọc. Lò vàng tỏa
tám trăm loại trầm đàn, nhìn thấy kìa rèm châu cuốn cao; quạt báu phẩy vào lồng
đựng lan xạ tỏa hương ngào ngạt, vả trông quạt ấy lông đuôi trĩ phấp phới.
Thiên tử bèn hỏi quan đương
giá:
- Có tấu chương thì trình ra,
không việc gì thì tan chầu.
Nói chưa hết câu, chỉ thấy
trong tả ban có một người đi ra phủ phục trước thềm vàng, tay cầm nha hốt dâng
cao, lớn giọng xưng thần:
- Thần, Thương Dung, là Tể tướng
chờ tội, chấp chưởng triều cương, có việc không dám không tâu trình. Ngày mai
là rằm tháng ba, nhằm ngày vía của đức Nữ Oa nương nương, xin bệ hạ giá lâm đến
cung Nữ Oa để thắp hương.
Trụ Vương hỏi:
- Bà Nữ Oa có công đức gì mà
trẫm phải cưỡi muôn xe đi thắp hương chứ?
Thương Dung tâu rằng:
- Nữ Oa nương nương là thần nữ
của thời thượng cổ, mới sinh ra đã có thánh đức. Thuở ấy Cộng Công thị (共工氏) húc đầu vào núi Bất Chu (不周山), trời nghiêng về tây bắc, đất sụt vào đông
nam, Nữ Oa bèn lấy đá ngũ sắc luyện lấy để mà đem vá trời xanh, cho nên có công
với trăm họ. Lê dân để đền ơn bà mới lập miếu thờ phụng. Nay Triều Ca thờ vị
phúc thần này thì bốn mùa yên vui, vận nước lâu dài, gió hòa mưa thuận, tai hại
tiêu mất. Đây là vị chính thần làm phúc cho nước nhà, che chở cho nhân dân, bệ
hạ nên đi hành hương.
Trụ Vương bèn nói:
- Trẫm chuẩn tấu chương của
khanh.
Nói xong bèn trở về cung, ý
chỉ truyền ra, hôm sau thiên tử lên xe liễn, hai ban văn võ đi theo đến cung Nữ
Oa dâng hương.
Thà lúc này Trụ Vương không đến
thì thôi, chỉ vì dâng hương mà khiến cho bốn biển xơ xác, sinh dân thất nghiệp.
Đúng như câu: “Buông dây mắc cần nơi sông rộng, nào ngờ câu phải chuyện thị
phi.”[2]
Sao thấy được vậy, là có thơ làm chứng đây:
Xe giá nhà vua ra khỏi thành,
Cờ bay phấp phới ánh tua trâm.
Gươm rồng sáng nhả màu mây gió,
Phướn lông lay đỏ cả bầu trời.
Bờ liễu sớm mai tiên hứng lộ,
Áo cừu tươm tất rạng khê hoa.
Muốn ngắm mặt rồng đi lễ miếu,
Mũ xiêm muôn nước lạy vua trên.[3]
Đi ra cửa Nam của Triều Ca,
nhà nhà sắp bày hương hỏa, kết vải lụa trải thảm dạ. Ba ngàn thiết kỵ, tám trăm
ngự lâm, Vũ Thành vương Hoàng Phi Hổ bảo giá, các quan văn võ cả triều đi theo.
Đến trước cung Nữ Oa thì thiên tử bước xuống khỏi xe liễn, tiến lên đại điện rồi
thắp hương dâng lên lò; các quan văn võ xếp hàng theo bái giá xong, Trụ Vương
nhìn ngó trong điện đẹp đẽ, sao cảm thấy:
Trước điện xinh đẹp, trang
vàng năm sắc; kim đồng sáp sáp cầm cờ phướn, ngọc nữ đôi hàng bưng như ý. Câu
ngọc móc tréo, nửa vầng trăng mới treo trên tầng không; trướng quý bà-sa, muôn
màu sắc chầu về chính bệ. Bên giường bích lạc đều là hạc múa loan bay; bảo tòa
trầm hương tạo hình rồng bay phượng nhảy. Phất phơ sắc lạ thật khác thường, lư
vàng tỏa khí lành, thướt tha bay bổng cưỡi mây tía, đuốc bạc rạng ngời.
Đúng lúc thiên tử đang nhìn cảnh
sắc trong hành cung thì một trận cuồng phong thổi bay bức màn chiêm hàn lộ lên.
Trụ Vương khá thấy nhà cửa trong cung miếu tề chỉnh, lầu gác nguy nga, chợt trận
cuồng phong ấy làm thổi bay màn trướng làm hiện ra thánh tượng Nữ Oa, dung mạo
tuyệt đẹp, thanh lịch tao nhã, quả là quốc sắc thiên tư, sống động như thật,
đúng là tiên tử hạ phàm, Hằng Nga giáng thế. Lời xưa có nói: “Nước sắp hưng thì
ắt có điềm lành; nước sắp tiêu thì ắt có yêu nghiệt.” Trụ Vương vừa trông thấy
thì thần hồn đảo điên, nảy lòng tà dâm, mới tự nghĩ rằng: “Trẫm là thiên tử
sang cả, giàu có bốn biển, có đủ tam cung lục viện nhưng cũng không có người
con gái diễm sắc thế này.” Vua bèn nói:
- Hãy lấy văn phòng tứ bảo ra
đây.
Quan thị giá vội đem bút mực
ra dâng cho Vua Trụ. Thiên tử mặt niềm mày nở bèn viết ra một bài thơ đề lên
vách phấn ở hành cung:
Màn loan trướng phượng cảnh phi thường,
Tượng ngọc ai kia khéo điểm trang.
Liễu uốn mày ngài khoe sắc thắm,
Áo xiêm quần thược lả tung bay.
Lê hoa đọng nước ganh kiều diễm,
Thược dược sương nhuần sánh dễ thương.
Ngẫu tượng má đào giá động đậy,
Rước về cung điện hầu quân vương.[4]
Thiên tử làm thơ xong, chỉ thấy
Thủ tướng Thương Dung khải tấu rằng:
- Nữ Oa là bậc chính thần đời
thượng cổ, là phúc chủ của Triều Ca, lão thần thỉnh giá đến dâng hương những
mong để khấn cầu phúc đức, khiến cho muôn dân lạc nghiệp, mưa thuận gió hòa,
binh lửa dập tắt. Nay bệ hạ làm bài thơ báng bổ thánh minh, không mảy may có
lòng thành kính, thế là đắc tội với thần thánh, không phải là nghi lễ tuần hạnh
thỉnh cầu của thiên tử. Xin chúa công truyền cho lấy nước rửa đi, kẻo bách tính
trong thiên hạ nhìn thấy lại đồn rằng Thánh thượng không có đức chính.
Trụ Vương bảo:
- Trẫm thấy dung mạo thần Nữ
Oa xinh đẹp tuyệt thế nên mới làm bài thơ để khen ngợi thôi, đâu có ý gì khác
chứ? Khanh chớ nên nhiều lời. Dẫu gì cô gia cũng là bậc tôn quý hàng vạn cỗ xe,
lưu lại bài thơ cho muôn dân trông ngắm, có thể vừa thấy nương nương xinh đẹp
tuyệt thế, cũng vừa thấy được di bút của cô gia vậy.
Nói đoạn bèn hồi triều. Bách
quan văn võ im lặng cúi đầu chẳng ai dám hó hé câu nào, cứ câm miệng mà theo về.
Xin có bài làm chứng:
Liễn phượng xe rồng rời đế kinh,
Thắp hương vái khẩn nữ thần linh.
Những mong cầu phúc dân lạc nghiệp,
Ai dè thơ phúng khiến dân kinh.
Chồn cáo về sau làm thái hậu,
Phò trợ toàn là lũ cọp beo.
Trời cao giáng điềm đều như thế,
Khiến kẻ hùng anh cảm bất bình.[5]
Thiên tử về cung lên ngồi ở
điện Long Đức (龍德殿), trăm họ chầu mừng
rồi tản đi. Bấy giờ là vào ngày vọng, phi hậu khắp tam cung đến chầu vua: Trung
cung Khương hậu, Tây cung Hoàng phi, Thanh Khánh cung Dương phi, chầu xong thì
lui về. Chuyện sau đó không cần nói nữa.
Lại nói vào ngày vía của Nữ
Oa nương nương, rằm tháng ba ấy nương nương sang Hỏa Vân cung (火雲宮) để chầu mừng tam thánh là Phục Hy (伏羲), Viêm Đế (炎帝) và Hiên Viên (軒轅) rồi trở về, bước xuống chim
thanh loan và ngồi lên bảo điện. Ngọc nữ, kim đồng chầu lạy xong, bỗng nương
nương chợt quay đầu nhìn thấy câu thơ trên vách phấn, nổi giận đùng đùng mắng:
- Ân Thụ là đứa hôn quân vô đạo,
không nghĩ đến tu thân lập đức để giữ gìn thiên hạ, nay lại không sợ trời cao,
dám ngâm thơ khinh nhục ta, quả là đáng ghét! Ta nghĩ Thành Thang phạt Kiệt làm
vua thiên hạ hưởng nước đã hơn sáu trăm năm, khí số đã tận, nếu không gây báo ứng
cho hắn thì đâu thấy được sự linh cảm của ta.
Nương nương liền kêu Bích Hà
đồng tử (碧霞童子) cưỡi thanh loan bay đến Triều Ca một hồi.
Không nói đến nữa.
Lại nói hai vị điện hạ là Ân
Giao (殷郊) và Ân Hồng (殷洪) đi tham yết phụ vương – Ân Giao kia về sau là Trực Niên Thái Tuế (值年太歲) có tên trong Bảng Phong thần, còn Ân Hồng là
Ngũ Cốc thần (五穀神), đều có tên trong tướng thần. Hai vị điện hạ
trong lúc đang hành lễ thì hai đạo hồng quang trên đỉnh bay xộc lên trời. Lúc Nữ
Oa đang đi thì bị hai luồng khí này cản đường mây lại, mới xảy ngó xuống biết rằng
khí vận Trụ Vương hẵng còn hai mươi tám năm nữa, không thể làm gì được nên tạm
thời lui về hành cung, trong lòng không vui, kêu Thải Vân đồng nhi (彩雲童兒) đem hồ lô vàng trong hậu cung ra để ở dưới thềm
son, giở cái nắp hồ lô ra thò tay rút trong hồ lô một đạo bạch quang, nó to như
sợi dây, cao hơn bốn hay năm trượng. Ở trên bạch quang lòi ra một cây phướn lấp
lánh bảy màu, ánh ngàn loại sáng nhấp nháy, gọi là phướn Chiêu yêu (招妖旛). Bất thình lình có luồng gió mù ào ạt, khí đen
phủ mờ, mây râm che khắp, gió qua mấy trận thì cả đám yêu quái trong thiên hạ đều
đến hành cung nghe đợi pháp chỉ. Nương nương dặn dò Thải Vân:
- Những yêu ma ở các xứ thì
hãy cho lui, chỉ để lại ba con yêu trong mả Hiên Viên cho đợi hầu.
Ba con yêu vào cung yết kiến,
miệng kêu:
- Nương nương thánh thọ vô
cương!
Ba con yêu này một con là Hồ
ly tinh (狐狸精) ngàn năm, một con là Trĩ kê tinh (雉雞精) chín đầu, một con là Ngọc thạch Tỳ-bà tinh (玉石琵琶精), chúng quỳ lạy trước thềm son. Nương nương dặn:
- Ba con yêu nghe mật chỉ của
ta đây: Thành Thang trông khí đã tối mờ, sắp mất thiên hạ, chim phượng gáy ở Kì
Sơn, Tây Chu đã sinh bậc Thánh chúa. Ý trời đã định nên khí số khiến vậy. Ba
yêu tinh chúng bay có thể ẩn đi yêu hình của mình, tìm cách thác thân vào trong
cung viện để làm mê loạn lòng vua; đợi khi Vũ Vương phạt Trụ thì hãy giúp cho
việc thành công. Sau khi sự thành ta sẽ khiến chúng bay cũng được thành chính
quả.
Nương nương dặn dò xong xuôi, ba con yêu quái
khấu đầu tạ ân rồi hóa cơn gió bay đi. Đúng là: Hồ ly nghe chỉ bày yêu thuật, tan
nát Thành Thang sáu trăm năm. Có bài thơ làm chứng, thơ rằng:
Tuần giữa tháng ba đến thắp hương,
Hứng lòng ngâm một bài thơ ương.
Cứ tưởng tài hay khoe bút mực,
Khiến xui cơ nghiệp nát như tương.[6]
Tiếp theo chuyện Nữ Oa nương
nương dặn dò ba con yêu thì không nói đến nữa.
Hãy nói tiếp về Trụ Vương,
sau khi chỉ vì dâng hương ngó thấy Nữ Oa xinh đẹp, sớm tối tương tư, quên cả
nóng lạnh, bỏ bê luôn việc ăn uống ngủ nghỉ, hễ trông thấy tam cung lục viện
thì cảm thấy cứ như là cơm thiu canh nguội, chẳng thiết dòm tới nữa; Trụ Vương
cứ ôm mãi chuyện này trong lòng cả buổi không khuây khỏa được, ưu uất không
vui. Một hôm khởi giá lên điện Hiển Khánh (顯慶殿), khi ấy có các tùy tùng đi bên cạnh, Trụ Vương chợt cảm thấy tỉnh táo
khỏe hẳn ra, bèn kêu bọn thị ngự gọi Trung gián đại phu Phí Trọng (費仲) – người này là nịnh thần của Trụ Vương, gần
đây vì nghe Thái sư Văn Trọng vâng sắc chỉ đi dẹp Bắc Hải, đại binh viễn chinh
đi lập công ở cõi ngoài, Trụ Vương bèn cho vời hai tên Phí Trọng và Vưu Hồn (尤渾) này vào. Hai tên này luôn luôn làm mê hoặc nhà
vua, nói những điều dua mị xằng bậy, Trụ Vương lúc nào cũng nghe theo. Có lẽ là
thiên hạ sắp nguy nên mới khiến nịnh thần hoành hành – Phí Trọng thình lình đến
triều kiến. Trụ Vương mới nói:
- Trẫm vì dâng hương ở đền Nữ
Oa ngẫu nhiên nhìn thấy dung nhan diễm lệ của nàng tuyệt thế vô song, tam cung
lục viện không ai làm thỏa được ý trẫm, biết làm thế nào đây? Khanh có kế sách
gì để làm yên lòng trẫm không?
Phí Trọng tâu rằng:
- Bệ hạ là bậc tôn quý hàng vạn
cỗ xe, giàu có bốn biển, đức sánh tày Nghiêu–Thuấn, tất cả mọi thứ trong thiên
hạ này đều thuộc sở hữu của bệ hạ, muốn gì chẳng được, việc này có gì khó đâu.
Ngày mai bệ hạ truyền một chỉ dụ ban ra cho bốn lộ chư hầu: mỗi một trấn tuyển
một trăm mỹ nữ để sung vào cung đình, lo gì mà không kiếm được mỹ nhân tuyệt thế
thiên hạ cho nhà vua chọn lựa chứ.
Trụ Vương cả mừng nói:
- Lời khanh tâu rất hợp ý trẫm.
Sáng sớm ngày mai phát chỉ. Thôi khanh hãy tạm lui về.
Trụ Vương liền cho ngự giá hồi
cung.
Rồi không biết chuyện tiếp
theo thế nào, hãy nghe hồi sau phân giải.
*
* *
[1] Nguyên văn: “Hỗn độn sơ phân tiên Bàn Cổ, Thái cực Lưỡng nghi Tứ tượng huyền. Tí Thiên Sửu Địa Nhân Dần xuất, Tị trừ thú hoạn Hữu Sào hiền. Toại Nhân thủ hỏa miễn tiên thực, Phục Hi họa quái âm dương tiền. Thần Nông trị thế thường bách thảo, Hiên Viên lễ nhạc hôn nhân liên. Thiếu Hạo Ngũ Đế dân vật phụ, Vũ vương trị thủy hồng ba quyên. Thừa bình hưởng quốc chí tứ bách, Kiệt vương vô đạo càn khôn điên, Nhật túng Muội Hỷ hoang tửu sắc, Thành Thang tạo bạc tẩy tinh thiên, Phóng Kiệt Nam Sào chửng bạo ngược, Vân nghê như nguyện hậu tô toàn. Tam thập nhất thế truyền Ân Trụ, Thương gia mạch lạc như đoạn huyền: Vấn loạn triều cương tuyệt luân kỷ, Sát thê tru tử tín sàm ngôn, Uế ô cung vi sủng Đát Kỷ, Sái Bồn Bào Lạc trung trinh oan, Lộc Đài tụ liễm vạn tính khổ, Sầu thanh oán khí ứng chướng thiên, Trực gián phẫu tâm tận phần chích, Dựng phụ khô dịch triều thiệp tiêm, Sùng tín gian hồi khí triều chính, Bình trục sư bảo tính hà thiên, Giao xã bất tu tông miếu phế, Kỳ kỹ dâm xảo tận tâm nghiên, Nật thử tội nhân nãi võng úy, Trầm hung tứ ngược như chiên diên. Tây Bá triều Thương tù Dũ Lý, Vi Tử bão khí tẩu phong yên. Hoàng thiên chấn nộ giáng tai độc, Nhược thiệp đại hải vô uyên biên. Thiên hạ hoang hoang vạn dân oán, Tử Nha xuất thế nhân trung tiên, Chung nhật thùy ti câu nhân chủ, Phi Hùng nhập mộng liệp Kì điền, Cộng tải quy Chu phụ triều chính, Tam phần hữu nhị nhật tương duyên. Văn khảo mạt tập đại huân một, Vũ Vương thiện thuật nhật càn càn. Mạnh Tân đại hội bát bách quốc, Thủ bỉ hung tàn phạt tội khiên. Giáp Tí muội sảng hội Mục Dã, Tiền đồ đảo phạt phản hồi toàn. Nhược băng khuyết giác tề kê thủ, Huyết lưu phiêu xử chi như tuyền. Giới y phủ trước thiên hạ định, Canh ư Thành Thang tăng quang nghiên. Mục mã Hoa Sơn thị yển vũ, Khai ngã Chu gia bát bách niên. Thái bạch kỳ huyền độc phu tử, Chiến vong tướng sĩ u hồn tiềm. Thiên đĩnh nhân hiền hiệu Thượng phụ, Phong thần đàn thượng liệt hoa tiên, Đại tiểu anh linh tôn vị thứ, Thương Chu diễn nghĩa cổ kim truyền.” (混沌初分盤古先,太極兩儀四象懸。子天丑地人寅出,避除獸患有巢賢。燧人取火免鮮食,伏羲畫卦陰陽前。神農治世嚐百草,軒轅禮樂婚姻聯。少昊五帝民物阜,禹王治水洪波蠲。承平享國至四百,桀王無道乾坤顛,日縱妹喜荒酒色,成湯造亳洗腥羶,放桀南巢拯暴虐,雲霓如願後蘇全。三十一世傳殷紂,商家脈絡如斷弦:紊亂朝綱絕倫紀,殺妻誅子信讒言,穢污宮闈寵妲己,蠆盆炮烙忠貞冤,鹿臺聚斂萬姓苦,愁聲怨氣應障天,直諫剖心盡焚炙,孕婦刳剔朝涉殲,崇信姦回棄朝政,屏逐師保性何偏,郊社不修宗廟廢,奇技淫巧盡心研,昵此罪人乃罔畏,沉酗肆虐如鸇鳶。西伯朝商囚羑里,微子抱器走風湮。皇天震怒降災毒,若涉大海無淵邊。天下荒荒萬民怨,子牙出世人中仙,終日垂絲釣人主,飛熊入夢獵岐田,共載歸周輔朝政,三分有二日相沿。文考末集大勳沒,武王善述日乾乾。孟津大會八百國,取彼凶殘伐罪愆。甲子昧爽會牧野,前徒倒戈反回旋。若崩厥角齊稽首,血流漂杵脂如泉。戒衣甫著天下定,更於成湯增光妍。牧馬華山示偃武,開我周家八百年。太白旗懸獨夫死,戰亡將士幽魂潛。天挺人賢號尚父,封神壇上列花箋,大小英靈尊位次,商周演義古今傳。)
[2] Nguyên văn: Mạn giang triệt hạ câu hòa tuyến, Tòng thử điếu xuất thị phi lai. (漫江撤下鉤和線,從此釣出是非來。)
[3] Nguyên văn: Thiên tử loan dư xuất phụng thành, Tinh mao thụy sắc ánh trâm anh. Long quang kiếm thổ phong vân sắc; Xích vũ tràng dao nhật nguyệt tinh. Đê liễu hiểu phân tiên chưởng lộ; Khê hoa quang diệu thúy cừu thanh. Dục tri tuần hạnh chiêm thiên biểu, Vạn quốc y quán bái thánh minh. (天子鑾輿出鳳城,旌旄瑞色映簪纓。龍光劍吐風雲色;赤羽幢搖日月精。堤柳曉分僊掌露;溪花光耀翠裘清。欲知巡幸瞻天表,萬國衣冠拜聖明。)
[4] Nguyên văn: Loan phượng bảo trướng cảnh phi thường, Tận thị nê kim xảo dạng trang. Khúc khúc viễn sơn phi thúy sắc, Phiên phiên vũ tụ ánh hà thường. Lê hoa đái vũ tranh kiều diễm, Thược dược lung yên sính mị trang. Đãn đắc yêu nhiêu năng cử động, Thủ hồi Trường Lạc thị quân vương. (鳳鸞寶帳景非常,盡是泥金巧樣粧。曲曲遠山飛翠色;翩翩舞袖映霞裳。梨花帶雨爭嬌豔;芍藥籠煙騁媚粧。但得妖嬈能舉動,取回長樂侍君王。)
[5] Nguyên văn: Phượng liễn long xa xuất đế kinh, Niêm hương
li chúc nữ trung anh; Chỉ tri kỳ phúc lê dân lạc, Thục liệu ngâm thi vạn tính
kinh. Mục hạ hồ ly vi thái hậu, Nhãn tiền báo hổ tận trâm anh. Thượng thiên
thùy tượng giai như thử, Đồ lệnh anh hùng thán bất bình. (鳳輦龍車出帝京,拈香釐祝女中英;只知祈福黎民樂,孰料吟詩萬姓驚。目下狐狸為太后;眼前豺虎盡簪纓。上天垂象皆如此,徒令英雄歎不平。)
[6] Nguyên văn: Tam nguyệt trung tuần giá tiến hương, Ngâm thi nhất thủ khởi phi ương. Chỉ tri bả bút thi tài học, Bất hiểu kim phiên xã tắc vong. (三月中旬駕進香,吟詩一首起飛殃。只知把筆施才學,不曉今番社稷亡。)
Nhận xét
Đăng nhận xét