TRÍ TUỆ
QUẢN LÝ CỦA TRUNG QUỐC THỜI XƯA
ĐẾ
VƯƠNG
KHÔNG THẠO DÙNG THUẬT THÌ SẼ MẤT ĐI QUYỀN LỰC THEO THỜI GIAN
TRỊ DÂN TRƯỚC HẾT CẦN TRỊ QUAN, NẾU QUAN TRỊ KHÔNG TỐT, DÂN CHẮC CHẮN DỄ SINH VẤN ĐỀ
Tác giả: THIÊN HÀNH KIỆN
Dịch giả:
NGUYỄN THÀNH SANG
Sau khi hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi thoái vị, chế độ đế
vương Trung Quốc mấy ngàn năm nay rốt cuộc đã trở thành lịch sử. Hậu nhân thường
dùng “dát vàng nạm bạc”, “sơn hào hải vị” để hình dung cái ăn cái mặc của hoàng
đế; dùng “kim bích huy hoàng”, “xe thơm ngựa báu” để hình dung việc đi đứng của
hoàng đế; dùng “khắp cả thiên hạ đâu đâu chẳng là đất của vua” để hình dung
hoàng đế chí cao vô thượng; dùng “tam cung lục viện”, “ba ngàn người đẹp” để
hình dung sự xa xỉ cực dục của hoàng đế. Song, không phải tất cả vị hoàng đế
nào cũng hưởng được những ngày vô cùng thư thái, một số ngày của hoàng đế có thể
hình dung là thê thảm lắm. Nếu muốn tránh được những ngày như thế, hoàng đế cần
phải làm tốt công việc chức trách của mình.
Hoàng đế là kẻ thống trị tối cao của Trung Quốc thời xưa, đó
cũng là chức trách của họ, biểu hiện chủ yếu trên ba phương diện:
1- Xác lập và duy trì địa vị chí cao vô thượng của mình;
2- Chiêu tập rộng rãi nhân tài thiên hạ cho mình sử dụng;
3- Trị vì quốc gia, đảm bảo sự yên ổn vững vàng của giang sơn
xã tắc.
Để làm hoàng đế phải có đủ năng lực trên ba phương diện đó.
Nói tóm lại, thuật đế vương được nói đến trong cuốn sách này chính là quyền,
thuật và pháp.
Quyền xét theo
danh nghĩa đó là quyền lực. Đối với hoàng đế mà nói, nó cực kỳ quan trọng, tác
dụng chủ yếu là làm rạng ngời địa vị cũng như quyền uy chí cao vô thượng của
mình. Nghiệp vụ đó cũng rất nhiều, cụ thể bao gồm bốn nghiệp vụ nhỏ đó là đoạt
quyền, tranh quyền, giữ quyền và khuếch quyền. Đoạt quyền tức là chỉ cho quyền
lực giành giật được từ tay kẻ khác, ví như Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận phát động
cuộc binh biến Trần Kiều. Tranh quyền tức là công khai hay ngấm ngầm đấu tranh
để rồi cuối cùng giành lấy quyền lực khi đã chờ đến lúc có cơ hội hay thực lực
cần thiết, ví như sự biến cửa Huyền Vũ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân chẳng hạn.
Giữ quyền tức là bảo vệ quyền lực của mình, đây là nghiệp vụ chủ yếu nhất của một
vị hoàng đế, cụ thể bao gồm ba phương diện là: ngăn ngừa sự chuyên quyền của hoạn
quan, ngoại thích và quyền thần bên trong triều đình; ngăn ngừa thế lực địa
phương bên ngoài triều đình trở nên lớn mạnh, uy hiếp quyền lực trung ương; và
chế ngự thế lực nước ngoài xâm nhập. Khuếch quyền tức làm làm phình to quyền lực
của mình ra, phần nhiều chỉ cho mặt mở rộng bản đồ lãnh thổ, dụ như Hán Vũ Đế
Lưu Triệt chinh phục Hung Nô.
Đoạt quyền và tranh quyền phần nhiều phát sinh trong thời khai
quốc, khuếch quyền thông thường phát sinh trong thời kỳ thịnh vượng, còn giữ
quyền thì xuyên suốt đầu đuôi trong thời kỳ thống trị của mỗi vị hoàng đế. Nếu
cả đời một vị hoàng đế khai triển toàn bộ bốn nghiệp vụ này thì đó chắc chắn là
một vị hoàng đế anh minh thần vũ. Trong mười vị hoàng đế được sách này giới thiệu
chi tiết thì Đường Thái Tông Lý Thế Dân và Thành-cát-tư Hãn Thiết-mộc-chân thuộc
loại hình này. Tám vị hoàng đế kia phần lớn thì khai triển được hai nghiệp vụ,
trong đó nhiều nhất là tranh quyền và giữ quyền, bao gồm bốn vị là Tần Thủy
Hoàng Doanh Chính, Hán Cao Tổ Lưu Bang, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, Quang
Vũ Đế Lưu Tú; có hai vị là đoạt quyền và giữ quyền, đó là Tống Thái Tổ Triệu
Khuông Dận và nữ hoàng độc nhất Vũ Tắc Thiên; cũng có hai vị là giữ quyền và
khuếch quyền tức là Hán Vũ Đế Lưu Triệt và Thanh Thánh Tổ Khang Hy.
Thuật là chỉ
phương pháp, thủ đoạn, mưu lược… Đối với hoàng đế mà nói cũng rất quan trọng,
tác dụng chủ yếu là lợi dụng quyền lực chí cao vô thượng của mình để điều khiển
quần thần, hầu như vận dụng trong thời kỳ giữ quyền. Thần (bề tôi) ở đây chủ yếu
là chỉ quan viên có chức tước tương đối cao, là người có sức ảnh hưởng nhất định
đối với quốc sự. Thuật cụ thể là bao gồm ba nghiệp vụ: gom người, biết người và
dùng người. Gom người là chỉ khả năng tụ tập những người có tài khắp thiên hạ đến
bên cạnh mình, đó là tài năng cơ bản nhất của hoàng đế, nói chung có thể dựa
vào phẩm đức của mình để thu hút người ta hoặc chế định chính sách ưu đãi để mời
gọi nhân tài. Biết người tức là năng lực giám sát hiểu được và nắm được phẩm đức
tốt xấu, năng lực lớn nhỏ, độ trung thành cao thấp v.v… của nhân tài, trình độ
phải cao hơn chút, có vẻ tùy tài năng cá nhân. Dùng người tức là căn cứ đặc điểm
của nhân tài để yêu cầu họ triển khai công tác tương ứng, mức độ tương đối rất
cao. Quân chủ anh minh không những có thể dụng hiền, khiến tài năng của hiền giả
được phát huy đến mức cao nhất; đồng thời cũng có thể dụng gian để giúp vua
hoàn thành nhu cầu trong phạm vi nhất định. Mà đặc điểm lớn của việc dùng người
còn thể hiện trong việc quản lý hoạn quan, ngoại thích, quyền thần… phát hiện
hành vi chuyên quyền nếu có, nhất định phải tiến hành hạn chế hoặc đè xuống,
không để cho xuất hiện tình trạng chia sẻ đại quyền. Ngoài ra, trong quá trình
đoạt quyền và tranh quyền, Thuật cũng có thể khởi tác dụng khá trọng yếu.
Pháp là chỉ
pháp trị, bao gồm chế độ pháp luật định ra, các chính sách quy định v.v… rồi
dùng nó tiến hành cai trị. Đối với hoàng đế mà nói không kém phần quan trọng,
tác dụng chủ yếu là để trị nước. Nghiệp vụ cụ thể bao gồm trị quan và trị dân,
quan ở đây chủ yếu cụ thể là chỉ quan viên cấp vừa và thấp. Đương nhiên, cũng
có thể trị quan viên cấp cao, nhưng thường thường Pháp có vẻ không khởi tác dụng
với quan viên cấp cao, thành ra mới nói là “hình phạt không lên đến đại phu”.
Nhìn chung lịch sử thì đại đa số hoàng đế thường chú trọng trị
dân, trên thực tế điều này không đúng. Trị dân trước hết cần trị quan, nếu quan
trị không tốt, dân chắc chắn dễ sinh vấn đề. Trong sách này có giới thiệu Quang
Vũ Đế Lưu Tú và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đều là những vị trọng về trị
quan hơn cả.
Thông qua sự giới thiệu về quyền, thuật và pháp nêu trên, mức
độ quan trọng của “ba cán dao” này đối với hoàng đế đã quá rõ ràng rồi. Thực tế
khi tiến hành nghiên cứu lịch sử của các triều đại, chúng ta cũng phát hiện khởi
nghĩa nông dân thực sự hiếm khi thành công. Tức là nói dù Pháp (luật pháp) có vấn
đề thì cũng không phải là nhát chí mạng đối với hoàng đế. Thời kỳ thống trị của
các bậc minh quân như Đường Thái Tông Lý Thế Dân, Thanh Thánh Tổ Khang Hy, Hán
Vũ Đế Lưu Triệt, Quang Vũ Đế Lưu Tú v.v… cũng có xuất hiện khởi nghĩa nông dân,
nhưng dưới sự đả kích của thế lực quân sự lớn mạnh, các cuộc khởi nghĩa này
không có cách nào lan rộng nổi. Vả lại sử dụng Pháp dù sao cũng rất giản đơn, nghĩa
là vị hoàng đế đó không rành trị quốc cũng có thể tiếp nối theo một phương thức
trị quốc nào đó hoặc có thể thay đổi đơn giản chút xíu, thậm chí có thể khai trừ
những quan viên hay những điều khoản pháp luật nào đó bị dân chúng vô cùng căm
ghét.
Nhưng nếu phương diện Thuật của hoàng đế phát sinh vấn đề thì
sẽ khá nguy hiểm. Ví dụ, Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh lúc lâm chung lại không hạn
chế Triệu Khuông Dận, có thể nói nhà vua vốn không hiểu gì về Triệu Khuông Dận,
rốt cuộc đã trực tiếp dẫn đến giang sơn đổi chủ. Tần Thủy Hoàng Doanh Chính khi
tiêu diệt nước Sở tin lời gièm pha của Lý Tín không dùng Vương Tiễn làm tổn thất
hơn 10 vạn quân, sau cùng khi mời Vương Tiễn xuất chiến lại không nghe lời tâu
cấp đủ 60 vạn quân, đó là một sai lầm trong đại nghiệp thống nhất. Hán – Sở
tranh hùng của Lưu Bang và Hạng Vũ, Lưu Bang ngoài năng lực bản thân còn có rất
nhiều nhân tài bên mình, Hạng Vũ tuy tự thân rất mạnh nhưng chỉ có một Phạm
Tăng lại không mấy trọng dụng. Cuối cùng Lưu Bang thắng lợi cũng là lẽ đương
nhiên. Có thể nói rằng: không thạo dùng thuật thì không thể nào đoạt quyền và
tranh quyền, nguy cơ là giữ quyền cũng không nổi. Mất quyền vẫn là chuyện nhỏ
thôi, chuyện lớn e là lo đến tính mạng, thậm chí là đối mặt với cảnh giang sơn
đổi chủ.
Đương nhiên, nguy hiểm nhất chính là vấn đề mất Quyền. Nhẹ thì
trở thành bù nhìn, ngày ngày lo sợ phập phồng; nặng thì mất luôn cái mạng, nước
mất nhà tan cũng là chuyện sớm muộn thôi. Thân là vị hoàng đế phải luôn luôn đề
phòng vấn đề mất quyền.
Ba kỹ thuật quyền, thuật, pháp tóm lại phải nắm vững hai cái
trước, như thế mới đảm bảo ngai vàng hoàng đế của mình. Nếu muốn khiến giang
sơn yên ổn, tiếp tục truyền ngôi thì phải nắm luôn pháp. Pháp là nền tảng, quyền
và thuật chỉ có thể mang lại hiệu quả nhất thời thôi. Mười vị hoàng đế được giới
thiệu trong sách này đáng được gọi là mười vị vua kiệt xuất trong các đời đế
vương. Ba thứ kỹ thuật của họ đều có những đặc điểm riêng đáng để hậu thế
nghiên cứu và noi gương. Ngoài ra, chương thứ XI sách này cũng giới thiệu sơ
qua mấy vị hoàng đế đã sử dụng ba kỹ thuật quyền – thuật – pháp rất sai lầm, ý
là nhìn từ phía phản diện để nhằm cảnh báo.
Việt dịch: Nguyễn Thành Sang.
Nhận xét
Đăng nhận xét