Chuyển đến nội dung chính

Thuật Đế Vương: Chương III

                                                     

                                                      Chương III.

KẺ SỬ DỤNG ĐIÊN CUỒNG: HÁN VŨ ĐẾ LƯU TRIỆT

   Trung Quốc bắt đầu từ thời Tây Chu luôn phải đối mặt với thế lực ngoại tộc xâm nhập. Sau khi xuất hiện Hung Nô lớn mạnh, kẻ thống trị miền đất Trung Nguyên đều lấy sự chống cự, phòng thủ là chính, cho rằng không cách gì chiến thắng Hung Nô. Nhưng Hán Vũ Đế Lưu Triệt đã ra tay biến đổi định thức tư duy này, từ thủ sang công. Mà thực hiện cuộc biến chuyển này tất cần phải xây dựng trên cơ sở quốc gia tập quyền cao độ, tất cần phải có đủ tài nghệ năng chinh thiện chiến, đồng thời cũng phải được dân chúng che chở.

   Nhằm đạt được những mục đích này, trong việc sử dụng “ba mánh” kỹ thuật của Lưu Triệt thể hiện đặc điểm là điên cuồng. Về phương diện sử dụng “quyền”, Lưu Triệt tích cực gây dựng quyền chí cao vô thượng, thực sự là duy ngã độc tôn. Về phương diện sử dụng “thuật”, Lưu Triệt ra sức thu hút nhân tài, mạnh dạn khởi dụng người mới, nhưng hết sức điên cuồng trong những chuyện thăng dời, giáng chức, xử tử v.v… chỉ trong một ý nghĩ. Về phương diện sử dụng “pháp”, Lưu Triệt tôn sùng Nho thuật, gắng cầu được sự thống nhất tư tưởng.

*

                                        *        *

*



Con đường quyền lực của Hán Vũ Đế Lưu Triệt không phải thuận buồm xuôi gió, nếu không có người mẹ thông minh thì Lưu Triệt sao có khả năng làm hoàng đế. Vì vậy Lưu Triệt hiểu rõ quyền lực của mình có được không dễ. Ban đầu kế thừa hoàng vị, Lưu Triệt không chóng hưởng thụ cái thế nhất ngôn cửu đỉnh của hoàng đế. Chính vì những trắc trở như vậy khiến cả đời Lưu Triệt đều gây tạo cái quyền chí cao vô thượng. Bất luận là bên trong hay bên ngoài đều không cho phép xuất hiện kẻ khiêu chiến quyền lực với ông.

 

a. Tránh khỏi mũi nhọn

Quá trình Hán Vũ Đế Lưu Triệt tức vị khá phức tạp, điều đó liên quan đến chuyện ngài không phải con đích trưởng, không phải do hoàng hậu sinh ra, vậy là có phần rất may mắn trong đó. Sau khi ông tức vị vẫn đối mặt với sự gò ép của hai bên thế lực, đó là bà nội và mẹ ruột của ông. Ban đầu ông vẫn chưa nhận thức được điều này.

Lúc lên ngôi Lưu Triệt chỉ mới 16 tuổi, đâu có biết cai trị thiên hạ ra làm sao. Song tính cách bẩm sinh của Lưu Triệt vốn nghịch ngợm, khi quyết định ông rất bất mãn do giới hạn của một số lễ chế nhưng không biết biện pháp cải cách nào cho tốt. Khéo sao ông biết được một người tên là Đổng Trọng Thư, một lần nói chuyện với Đổng Trọng Thư khiến ông quyết định tôn sùng Nho thuật. Thế là ông bắt đầu trọng dụng hai nho sinh là Ngự sử đại phu Triệu Quán và Lang trung lệnh Vương Tàng, tiến hành cải cách một số lễ chế. Tất cả đều không qua khỏi tầm mắt của bà nội thái hoàng thái hậu Đậu thái hậu. Đậu thái hậu nhất mực tôn sùng tư tưởng Hoàng Lão, điều này trái với Lưu Triệt đang thúc đẩy tư tưởng Nho gia. Đậu thái hậu vô cùng giận dữ mắng chửi Lưu Triệt:

- Tiểu tử thối! Mới vừa lên ngôi đã muốn thay trời đổi đất, lông cánh mạnh rồi sao?

Sau đó bà bắt đầu can dự thô bạo vào việc triều chính, ép Hán Vũ Đế Lưu Triệt phải cách chức bọn Triệu Quán và Vương Tàng cũng như đình chỉ cải cách.

Chuyện này đối với Lưu Triệt mà nói cảm giác như một gáo nước lạnh tạt vào đầu. Lưu Triệt cũng hết sức bực bội, dám giận nhưng không dám nói. Nói là một hoàng đế vô tri bình thường có lẽ còn muốn đấu với bà nội một phen. Nhưng Lưu Triệt biết rõ mình căn bản không có thực lực để phô bày với bà nội. Mà sự thực Lữ Hậu cầm quyền triều chính đầu đời Hán khiến Lưu Triệt hiểu rõ không thể đối kháng với bà nội. Hơn nữa Lưu Triệt còn hiểu rõ một chuyện là bà mình tuổi tác đã cao, sống không được bao lâu nữa. Mình còn chưa đến 20 tuổi, không cần phải tranh tới nỗi cá chết mắc câu. Cuối cùng Lưu Triệt quyết tâm lợi dụng ưu tế tuổi tác chờ bà nội Đậu thái hậu chết. Thế là ngược lại Lưu Triệt càng tôn kính Đậu thái hậu hơn, thừa nhận mình đã sai, nói là do tuổi trẻ không biết, sau này có đại sự gì sẽ bẩm báo cả cho Đậu thái hậu. Đậu thái hậu cực kỳ ham mê quyền lực kia thấy vậy càng ngày càng mãn nguyện với đứa cháu của mình. Mãi đến khi Hán Vũ Đế Lưu Triệt ở ngôi được 6 năm, ông đã tích cực phối hợp với quyết sách của Đậu thái hậu, cam chịu làm một kẻ chấp hành.

Tuy nhiên, ngay sau khi Đậu thái hậu vừa mới giá băng, Lưu Triệt bắt đầu điên cuồng trả thù cực kỳ mau lẹ. Trước tiên ông nói trên triều đường:

- Đậu thái hậu đã chết là chuyện không may cho nước nhà, cần phải lo hậu táng, cử hành tang lễ long trọng.

Ông yêu cầu hai trọng thần thân tín của Đậu thái hậu phụ trách chủ trì tang lễ của Đậu thái hậu và nói:

- Các ngươi làm việc trẫm mới yên tâm.

Mà hai người trọng thần này quả thực cũng tận tâm kiệt lực làm tang lễ cho thật tốt, trên dưới triều đình đều rất thỏa lòng. Nhưng lúc đó, Lưu Triệt đột nhiên biến sắc, tìm xương trong trứng gà mắng là tang lễ làm không tốt chút nào và lập tức cách chức hai vị trọng thần kia. Những quan viên khác không thấy rõ trò còn thầm khen hoàng đế:

- Vua ta thật là hiếu thuận, tang lễ đã hoàn thành đến vậy ngài còn cảm thấy chưa đủ. Có thể thấy mối quan hệ bà cháu họ rất tốt.

Nhưng ý họ đâu ngờ được Hán Vũ Đế Lưu Triệt còn liên tiếp bãi trừ Thừa tướng do Đậu thái hậu sắp xếp, các đại thần như Ngự sử đại phu… thay vào đó là nhân mã của mình. Các quan viên này mới hiểu ra:

- Náo loạn nửa ngày hóa ra là hoàng đế đóng kịch, quan hệ bà cháu họ rất xấu rồi, vậy mà trước đó không nhìn ra được gì hết nhỉ?

Lưu Triệt không chỉ lừa gạt tổ mẫu Đậu thái hậu mà lừa luôn mọi quan viên, bao gồm cả mẹ ruột mình. Mẫu thân Lưu Triệt là Vương thái hậu vốn dĩ còn muốn bắt chước bà bà Đậu thái hậu cầm quyền hoặc can dự triều chính. Nhưng sau chuyện này bà chợt phải đánh tan ý nghĩ ấy. Hơn nữa thực lực ngoại thích lớn mạnh lấy Đậu thái hậu làm cốt lõi đã bị giải thể rồi, thế lực ngoại thích của mẫu thân Vương thái hậu cũng bị khiếp sợ. Từ đó Hán Vũ Đế Lưu Triệt thực sự tự nắm quyền trong tay.

Lời bàn: Hán Vũ Đế Lưu Triệt tính tình phản phúc tráo trở, lúc chưa hoàn toàn nắm quyền trong tay thì phân tích nhận chân thế cục đương thời, áp dụng phương thức giấu tài kín nghệ. Nhưng “giấu tài kín nghệ” đối với tính cách Lưu Triệt mà nói quả thật rất khó, rất mau sau này sự trả thù điên cuồng của ông ta có thể chứng minh điều đó. Điều đó cũng đồng thời chứng tỏ vì quyền lực chí cao vô thượng Hán Vũ Đế Lưu Triệt bằng lòng hy sinh bất kể, khát vọng quyền lực cực mạnh của ông không một ai có thể xâm phạm và quấy rối.

  

b. Mở ơn lệnh

Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang giành được thiên hạ, nhằm ổn định giang sơn họ Lưu mới đề ra phương châm quyền lực “không phải họ Lưu không cho làm vương, không có công trạng chớ phong làm hầu”, hầu hết phân phong cho con cháu họ Lưu. Hành động này ngoài mặt có thể đề phòng hữu hiệu họ khác cướp lấy giang sơn họ Lưu, nhưng thực tế nó tiềm ẩn mối lo toan lớn hơn. Theo điều tra, đầu thời Hán cả nước có 59 quận, trong đó cả 10 nước chư hầu đã chiếm tới 42 quận rồi, tổng lượng vượt quá số quận do trung ương trực hạt, nước chư hầu đã chiếm hơn một nửa đất đai cả nước; nhân khẩu toàn quốc hơn 13.000.000 (mười ba triệu) người, vương quốc chư hầu đã chiếm tới hơn 8.500.000 (tám triệu năm trăm) người. Trong tình hình đó, các nước chư hầu lớn mạnh hoàn toàn chẳng màng tới chính sách của trung ương, các nước chư hầu nhỏ hơn cũng có thể liên kết lại để tiến hành đối kháng với trung ương, xuất hiện cục diện quyền lực bị phân tán quá nửa. Những cuộc tạo phản của chư hầu như Hoài Nam vương, Tế Bắc vương trong thời kỳ Hán Văn Đế (ông nội Lưu Triệt), “nổi loạn bảy nước” bộc phát thời Hán Cảnh Đế (cha Lưu Triệt) càng là thách thức nghiêm trọng đến nền thống trị trung ương của Hán triều.

Sau khi Lưu Triệt được lập làm hoàng thái tử từ lúc 7 tuổi thì cảm giác rõ rệt mình phải được sự tôn trọng của các anh em khác, nhưng càng lúc càng không rõ ràng. Về sau ông mới hiểu phạm vi thế lực thực sự của mình chỉ giới hạn trong địa khu quản hạt trung ương. Sau khi tức vị, ông càng cảm giác được rằng hoàng đế phải chịu một chút ấm ức. Đương nhiên khi mới lên ngôi, thực quyền quản hạt trong miền trung ương của ông còn không có. Làm sao đối phó với chư hầu, đó là vấn đề làm Lưu Triệt đau đầu nhất. Lúc này, kẻ sĩ học hỏi bốn phương là Chủ Phụ Yển sau khi chưa nhận được lễ ngộ từ vương quốc chư hầu phía bắc như Yên, Triệu, Trung Sơn… về đến Trường An đề xuất mở ơn lệnh để giải quyết vấn đề chư hầu.

Sau khi Lưu Triệt xem thì rất mừng, tối hôm đó yêu cầu Chủ Phụ Yển vào chầu, phong làm Lang trung lệnh. Rồi một năm sau đó liên tiếp thăng cấp bốn lần. Kỳ thực Hán Vũ Đế không quen lắm với việc mở ơn lệnh. Biện pháp này Giả Nghị đã từng đề xuất trong thời kỳ Hán Văn Đế song chấp hành đã sinh vấn đề, kết quả không trọn vẹn. Triều Thố trong thời Hán Vũ Đế cũng từng đề sách lược “tiêu phiên”, ý đồ tiêu quyền quá rõ ràng, trực tiếp gây nên “phản loạn bảy nước”. Vì vậy Lưu Triệt nhất mực muốn tìm biện pháp hay hơn để tăng cường trung ương tập quyền. Trên thực tế, sau khi Lưu Triệt thấy mở ơn lệnh của Chủ Phụ Yển, có hai nguyên nhân làm ông rất mừng: một, mở ơn lệnh là bản cải tiến của chủ trương Giả Nghị năm nào, có thể che tai mắt người ta, tiện việc chấp hành; hai, chọn ra người tốt nhất để thi hành chính sách, đó là Chủ Phụ Yển. Mà phương thức phối bị “chính sách tốt thêm người chấp hành tốt” khiến Hán Vũ Đế Lưu Triệt nhất mực được lợi trong cuộc đời thống trị của mình.

Mở ơn lệnh rốt cuộc là gì? Về mặt chữ nghĩa tức là thúc đẩy hiệu lệnh ơn huệ, làm cho nhiều người hơn cảm thấy được ơn huệ. Các nước chư hầu đều định theo phương thức con đích trưởng kế thừa vương vị chư hầu khiến những đứa con khác phải chịu lạnh nhạt, mà con đích trưởng kế thừa vương vị cũng cảm thấy chuyện này không hay. Mở ơn lệnh tức là yêu cầu những người con nối khác cũng được phong hầu luôn, nhưng chịu sự quản hạt của con đích trưởng, đất phong sẽ tiến hành phân phối bên trong lãnh địa của con đích trưởng. Hành động này khiến thực quyền của nước chư hầu bị phân hóa, sẽ không hình thành lực lượng địa phương có sự tập quyền tương đối lớn, nhằm đặt nền tảng cho mai sau “tiêu hầu” (cắt giảm chư hầu) sẽ không gây nên phản loạn. Song chính sách này hễ chư hầu nào thông minh một chút có thể phát hiện vấn đề ngay, có thể sẽ không ra phép được mà còn bị cản trở. Nhắm vào tình huống này, Chủ Phụ Yển phát được tác dụng. Năm đó khi vân du mỗi nước chư hầu, Chủ Phụ Yển có làm nửa chức quan, làm không ít công việc, hiểu được một chút nội tình của các nước chư hầu. Thế là đối với những nước chư hầu chống cự hoặc không chấp hành mở ơn lệnh, Chủ Phụ Yển sẽ giải quyết vấn đề bằng cách vạch trần chuyện riêng tư của vương chư hầu. Những trò của Chủ Phụ Yển mặc dù không thể công khai nhưng quả thực rất hữu dụng. Rất mau, hai nước chư hầu Yên và Tề bị thủ tiêu, nước chư hầu khác mỗi người tự nguy luôn. Cứ mấy lần như vậy, Hán Vũ Đế Lưu Triệt đã đạt được mục đích “tiêu phiên”, song Chủ Phụ Yển đã trở thành mục tiêu công kích. Lúc này Lưu Triệt bèn biểu hiện một bộ mặt cực kỳ tàn nhẫn, không mảy may nhớ chút công lao nào của Chủ Phụ Yển, thuận theo ý chư hầu giết chết Chủ Phụ Yển. Mà các nước chư hầu cũng càng thêm sợ sệt Hán Vũ Đế Lưu Triệt, ông là đại biểu của sự tập trung quyền lực trung ương trước chưa từng có.

Lời bàn: Lưu Triệt vì tăng cường trung ương tập quyền, thực tế đã làm rất nhiều công tác. Việc thực thi mở ơn lệnh có sức ảnh hưởng nhất, là một trong những công tác hữu hiệu nhất. Quân vương các nước chư hầu dù có mối quan hệ huyết thống xa hay gần với Lưu Triệt nhưng một lòng Lưu Triệt chỉ muốn đối mặt gây tạo quyền lực chí cao vô thượng, “Phật cản giết Phật, Thần cản giết Thần”.

   

c. Chinh phạt Hung Nô

Lưu Triệt được xưng là Vũ Đế có liên hệ rất lớn đến việc ưa chuộng vũ lực. Lưu Triệt ở ngôi 54 năm, thời gian chinh chiến với Hung Nô dài hơn 40 năm. Hơn nữa ông thay đổi chính sách đối đãi hòa thân với Hung Nô từ thời Hán Cao Tổ Lưu Bang tới giờ, từ thủ sang công. Ông chinh phạt Hung Nô không ngừng thắng lợi, khiến cho quyền lực của Lưu Triệt đạt tới đỉnh cao.

So với vấn đề nội bộ phản loạn chư hầu, mối họa Hung Nô đến từ phương Bắc khiến vương triều Đại Hán đau đầu hơn. Thực tế từ thời kỳ Xuân Thu–Chiến Quốc đến thời kỳ thống trị nhà Tần, Hung Nô phương Bắc luôn là mối lo bên ngoài lớn nhất của vùng Trung Nguyên. Sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang thống nhất thiên hạ, suất lãnh hơn 10 vạn đại quân công đánh Hung Nô nhưng ngược lại bị Hung Nô vây khốn 7 ngày trong thành Bạch Đăng, về sau nhờ thủ đoạn hối lộ mới trốn thoát được. Vương triều Đại Hán lĩnh giáo được sức mạnh của Hung Nô, sau này thông qua mối quan hệ song phương duy trì bằng phương thức như xưng thần, hòa thân… cứ duy trì cho đến thời kỳ Hán Vũ Đế.

Song Hán Vũ Đế đã muốn thay đổi điều này. Sớm khi lên ngôi năm thứ hai, Lưu Triệt đã phái Trương Khiên xuất sứ Tây Vực, hy vọng nhờ cuộc liên minh chiến lược này hình thành sự phản kích Hung Nô, dồn không gian sinh sống của Hung Nô lại, thực hiện bao vây chiến lược đối với Hung Nô. Năm thứ 8, ông dẫn quần thần cùng thảo luận đặt ra một kỳ mưu kinh trời: cuộc chiến Mã Ấp. Nhưng vì để lộ tin tức, cuộc chiến này không được thành công, nhưng lại trở thành tiêu chí của vương triều Đại Hán chính thức tuyên chiến với Hung Nô. Sau này, Hán Vũ Đế Lưu Triệt lại đích thân quyết sách an bài cuộc chiến Hà Nam, cuộc chiến Mạc Nam, cuộc chiến Mạc Bắc – ba chiến dịch lớn quan trọng tác chiến với Hung Nô. Đối với thời gian dụng binh cụ thể, địa điểm xuất binh, sắp xếp binh lực, phương hướng công kích, Lưu Triệt đều bất kể to nhỏ xét sạch không sót. Sau ba chiến dịch lớn, Hung Nô không còn cuồng ngạo như trước, Mạc Nam cũng không còn vương đình của Hung Nô nữa. Hung Nô dù đóng ở miền lạnh giá khổ sở nơi Mạc Bắc cũng không dám có ý nghĩ trái khuấy gì với Hán triều. Lưu Triệt phát động cuộc quyết chiến với Hung Nô cuối cùng giành được thắng lợi viên mãn, sự thiết tưởng mà chiến dịch làm được đã thực hiện thành công toàn bộ. Đương nhiên Lưu Triệt vì đánh bại Hung Nô cũng hao phí nhân lực, vật lực, tài lực rất lớn, khiến sự phát triển kinh tế xã hội chịu trở ngại nhất định, cũng trở thành nguyên nhân lớn nhất để hậu thế chất vấn nghi ngờ Hán Vũ Đế Lưu Triệt.

Nếu Lưu Triệt tiếp tục chính sách hòa thân, chiến tranh song phương đại quy mô cũng sẽ không xuất hiện. Nhưng dựa vào đặc điểm tính cách của Lưu Triệt, ông làm sao có thể thản nhiên chấp nhận “sự thống trị” của kẻ khác? Từ lúc mới lên ngôi, sau khi bị bà nội Đậu thái hậu “quản chế” suốt mấy năm, ông đã thề rằng sẽ không để bất kỳ kẻ nào khống chế, bao gồm cả mẹ ruột ông nữa. Bảo ông phải làm chính sách hòa thân khác gì sỉ nhục lớn nhất của vương triều Đại Hán. Mầm mống cừu hận sớm đã gieo sâu trong lòng, nhưng khát vọng mưu cầu quyền lực chí cao vô thượng còn cháy bỏng hơn nữa. Ông cho rằng giải quyết sự phân tranh này không có cách gì hay bằng chỉ thông qua thủ đoạn vũ lực. Nhưng hành động chinh phạt đại quy mô đối với Hung Nô không chỉ có thể tập trung cao độ quyền lực quân sự cả quốc gia, suy yếu thế lực quân sự của nước chư hầu, đồng thời còn có thể đề cao uy vọng và quyền thế cá nhân đạt đến cao độ không tiền khoáng hậu. Vì vậy Hán Vũ Đế Lưu Triệt chinh phạt Hung Nô vẫn là tiến hành xoay quanh theo tư tưởng hạt nhân là xây dựng quyền lực chí cao vô thượng.

Lời bàn: so với lịch đại đế vương mà nói, Hán Vũ Đế quyền thế lớn nhất, quyền thế này không chỉ thể hiện ở bên trong vương triều Đại Hán mà còn thể hiện ra bên ngoài. Câu nói của Trần Thang đảm nhiệm Phó hiệu úy Tây Vực đô hộ phủ thời kỳ Hán Nguyên Đế có thể đại biểu nhất cho tư tưởng quyền lực đối ngoại của Hán Vũ Đế, tức “kẻ dám xâm phạm Hán dù xa cũng giết tất”. “Ngang trong nhà” là đã rất cứng rồi, vị vua đó lại còn dám ngang bướng ra bên ngoài nữa.  

*

                                        *        *

*

Hán Vũ Đế Lưu Triệt hoàn toàn chú trọng nhân tài, về mặt thu hút nhân tài ông đã có công phu rất lớn, đưa ra một loạt chính sách tiến cử nhân tài. Trong thời gian ngắn chung quanh ông đã tụ tập nhiều hạng người có tài năng. Nhưng Lưu Triệt khi sử dụng những người này lại không có quy tắc rõ ràng, ông có thể đưa một kẻ hoàn toàn tầm thường lên làm Tể tướng, cũng có thể cho một người không có kinh nghiệm chiến tranh đi dẫn binh. Ông khiến một cá nhân đắc thế trong nháy mắt cũng khiến họ thất thế trong nháy mắt. Nhưng bất luận ra sao, kết quả cuối cùng đều là quần thần đối với ông càng lúc càng sợ, không ai dám khiêu chiến với quyền uy của ông.

 

a. Bổ nhiệm mười ba Thừa tướng

Hán Vũ Đế tại vị 54 năm, nhiệm dùng tổng cộng 13 vị Thừa tướng. Con số tuy không nói là quá nhiều nhưng cũng chứng tỏ là rất khó làm Thừa tướng của ông. Mọi người đều biết trong thời kỳ đế chế phong kiến, Thừa tướng được coi là quan vị cực phẩm “dưới một người, trên vạn người”, là giấc mộng tột cùng của rất nhiều bậc sĩ đồ. Song vào thời kỳ Hán Vũ Đế, đây lại là một chức vị nguy hiểm cao nhất. Trong 13 vị Thừa tướng, 3 người bị ép tự sát, 3 người bị chém chết, 3 người bị miễn chức, 1 người bị dọa chết, chỉ có 3 người kịp sống trọn đời.

3 vị Thừa tướng bị ép tự sát lần lượt là Lý Thái, Trang Thanh Địch và Triệu Chu nhiệm thứ 7, 8 và 9. Trong đó, Triệu Chu oan nhất, cũng không đáng nhất. Lúc Lưu Triệt đang tế tự tông miếu, vàng ròng thành sắc do các nước chư hầu cung phụng vì tên phân lượng không đủ, trong nháy mắt đã cắt bỏ 106 tước vị chư hầu, Thừa tướng Triệu Chu cũng vì biết chuyện không báo mà bị bắt vào ngục, bèn tự sát. Sau khi Lưu Triệt biết được mắng người này hồ đồ:

- Ngươi tự sát làm cái quái gì chứ? Ta còn chưa xử ngươi kia mà.

Lý Thái thì do chiếm dụng nhà người mai táng đất trống trước sân lăng Hán Cảnh Đế mà bị trị tội, Trang Thanh Địch thì do vu cáo mà bị trị tội, nhưng tội danh hai người chưa đến mức chết. Quá rõ ràng, ba người này đều do quá sợ hãi Hán Vũ Đế Lưu Triệt mà tự sát, hiển nhiên họ cũng không cái tài của bậc Thừa tướng.

Ba Thừa tướng bị chém chết lần lượt là Đậu Anh nhiệm thứ 2, Công Tôn Hạ và Lưu Khuất Li nhiệm thứ 11 và 12. Trong đó Công Tôn Hạ lúc được nhậm chức Thừa tướng là buồn cười nhất. Ông ta ôm cái đầu khóc rồi nói:

- Thần vốn là kẻ nhỏ mọn giữ biên cương, vì có chiến công mới được làm quan, tài năng không hợp để làm Thừa tướng đâu ạ, xin hoàng thượng chọn người khác đi.

Nghe nói Lưu Triệt trông cái dáng vẻ đáng thương của ông ta cũng cảm động phát khóc, cho tả hữu nâng ông ta dậy nhưng ông ta không chịu đứng dậy. Lưu Triệt không màng ông ta nữa, đứng dậy rồi đi. Như vậy Công Tôn Hạ cực chẳng đã phải nhận chức. Ra khỏi cửa cung ông liền than thở:

- Bây giờ ta phải đối mặt với nguy hiểm rồi.

Về sau lời nói của ông ta quả nhiên ứng nghiệm. Nhưng ba người này thực tế đều là bị giết oan, họ có lầm lỗi nhưng không đến mức phải chết.

Ba vị Thừa tướng bị bãi miễn lần lượt là Vệ Quán, Hứa Xương và Tiết Trạch nhiệm thứ 1, thứ 3 và 5. Vì ba người đó thật không có tài năng gì cả, Lưu Triệt nhịn không nổi nên bãi miễn chức của họ.

Thừa tướng nhiệm thứ 4 Điền Phần vốn là ngoại thích, cậu của hoàng đế, tham tiền hám quyền, cả gan làm bậy, không làm được chuyện gì tốt, chỉ lo việc tâm kế. Lưu Triệt rất phản cảm đối với hắn, nhưng vì nể mặt mẫu thân nên không tiện phát tác. Về sau, hắn cảm giác trong triều không ai là đối thủ của hắn thế là bắt đầu tìm lỗi của Thừa tướng Đậu Anh nhiệm kỳ 2, trăm phương ngàn kế bức hại ông tới chết. Nhưng vì trong lòng có quỷ, hắn cho rằng hồn ma Đậu Anh tìm về đòi mạng, rốt cuộc bị dọa tới chết.

Thừa tướng lần lượt thứ 6, 10, 13 là Công Tôn Hoằng, Thạch Khánh và Điền Thiên Thu là may mắn nhất, sống được trọn đời. Công Tôn Hoằng hơn 60 tuổi mới làm Thừa tướng nhưng lại là người gian trá, không được người đời sau đếm xỉa. Hắn có thể lừa gạt Lưu Triệt suốt thời gian dài chưa xảy vấn đề và luôn hóa nguy thành an, chứng tỏ hắn còn có bản lĩnh nhất định. Thạch Khánh cũng có tài năng kha khá, ở ngôi tướng 9 năm, chỉ làm được hai chuyện nhưng đều khiến Lưu Triệt vô cùng bất mãn. Lưu Triệt cứ nhịn ông ta chính vì người này và gia tộc ông ta trung thành tuyệt đối với hoàng đế. Điền Thiên Thu vốn là người coi lăng của Hán Cao Tổ Lưu Bang, cũng không có năng lực gì. Vì lúc Lưu Triệt xử lí Thái tử mưu phản do dự chưa quyết, ông đề xuất một kiến nghị giải quyết nên được trọng dụng và được phong làm Thừa tướng.

Lời bàn: nhìn từ năng lực, xuất thân cho đến nguyên nhân được phong làm Thừa tướng của 13 vị Thừa tướng này; kẻ năng lực đột xuất dường như không có, phần lớn tài năng đều tầm thường; xuất thân cũng có đủ mẫu mã, có phu xe, có người giữ lăng, có hoàng thân… nguyên nhân bái tướng phần nhiều là ý muốn cá nhân của Lưu Triệt, không mảy may theo quy luật nào cả. Những người này có thể thình lình đắc thế nhưng họ cũng thất thế trong nháy mắt.

  

b. Vệ Thanh thất sủng

Sau khi Hán Vũ Đế Lưu Triệt chính thức tuyên chiến với Hung Nô, về chiến lược từ thủ sang công, song lại gặp phải cảnh “nhân tài như lá mùa thu”. Trường kỳ tới giờ, tướng quân trú phòng Hung Nô phần nhiều thạo về phòng thủ, muốn họ sấn vào đất Hung Nô giết địch cơ hồ không có khả năng. Trong đó nổi tiếng nhất chính là Lý Quảng, năng lực phòng thủ đệ nhất thiên hạ, Hung Nô đều rất sợ hãi. Nhưng Lưu Triệt biết rõ bọn người Lý Quảng không phải là nhân tài tốt nhất để công thành chiếm đất. Đang lúc Lưu Triệt đau đầu vì chuyện này, ông phát hiện ra một người: Vệ Thanh.

Vệ Thanh xuất thân hoàn toàn thấp kém. Mẹ ông lúc làm đầy tớ tư thông với người sinh ra Vệ Thanh. Mặc dù sinh phụ nhận nuôi nhưng suốt thời gian dài anh em ông bị sự ghẻ lạnh, chửi rủa của phụ thân và bà vợ chính, chịu đủ hết khổ nạn. Khi chị gái Vệ Tử Phu đắc sủng, cuộc đời Vệ Thanh mới hứng nhận sự thay đổi. Rốt cuộc ông trở thành em vợ của hoàng đế, cơ hội được tiếp xúc với Lưu Triệt cũng nhiều lên. Bản thân Lưu Triệt đại phú đại quý, sinh hoạt và sự nghiệp đều rất thuận lợi, nhưng sau dịp gặp gỡ Vệ Thanh rất ư đồng tình. Đồng thời, vua còn phát hiện Vệ Thanh võ nghệ cao cường lại rất có tài năng.

Một lần khi nghỉ mát cùng Vệ Thanh, Lưu Triệt hỏi Vệ Thanh:

- Nhiều năm như vậy tại sao ngươi không đến đây?

Vệ Thanh trả lời:

- Thần xuất thân như vậy đâu có cách nào đến được? Có thể sống tới giờ đã rất vui vẻ rồi. Hiện tại còn biết đến hoàng thượng thần đã vô cùng biết đủ.

- Thế bình thường lúc ngươi bị đuổi đi thì thế nào? – Lưu Triệt lại hỏi.

Vệ Thanh cười nhạt nói:

- Con người thần rất hay suy nghĩ. Hồi nhỏ có đi thả dê, thần suốt ngày nghĩ: làm sao để dê ăn tốt lại không bỏ đi, sau này mới hiểu ra chính là chăn thả nơi xa lại phải chịu khó. Vậy là từ đó dê tốt mà thân thể mình cũng tốt lại không bị chửi mắng nữa. Đồng thời thần còn rèn được một bản lĩnh chính là không lầm lạc phương hướng, dù thế nào cũng không lạc mất. Có lần lớn lên cõng mẹ đi ai ngờ đi xa quá, nhưng vẫn không lạc đường tự tìm về nhà.

Lưu Triệt nghe những lời đó vô cùng phấn khởi bèn tiếp tục hỏi:

- Thế công phu của ngươi khá chứ?

Vệ Thanh có phần ngạc nhiên:

- Thần cũng không biết, trước giờ thần chưa đánh nhau với ai. Nhưng thần đã từng đối phó với không ít mãnh thú, hổ báo sài lang gì đó.

Lưu Triệt cả mừng nói Vệ Thanh rằng:

- Như vầy đi, ta cho ngươi một số binh thư, ngươi hãy cầm chúng theo bên mình cứ việc nghiền ngẫm. Sau này ta cho ngươi cơ hội để ngươi được đánh nhau thật bằng đao bằng thương.

Sau này quả nhiên Vệ Thanh rất khắc khổ, tiến bộ thần tốc.

Năm 129 trước Tây lịch, Hung Nô lại lần nữa dấy binh xuống nam, Hán Vũ Đế Lưu Triệt mảy may không do dự đòi phái binh chống cự và cho ra bốn lộ nhân mã. Cuộc chiến lần này là cuộc giao binh có ý nghĩa thực sự đầu tiên sau khi phá vỡ quan hệ hòa bình Hán – Hung. Chủ tướng của bốn lộ nhân mã lần lượt là Lý Quảng, Công Tôn Hạ, Công Tôn Ngao và Vệ Thanh, mỗi người dẫn một vạn binh từ bốn nơi xuất kích. Trong đó Vệ Thanh dẫn binh lần đầu. Quá hiển nhiên, Lưu Triệt muốn xác định xem ai xứng đáng trách nhiệm cao cả tương lai chinh phạt Hung Nô, đồng thời chủ yếu nhất là thử nghiệm Vệ Thanh. Kết cục hơn cả dự liệu, chỉ có Vệ Thanh đánh thắng trận. Vệ Thanh xuất chinh xa nhất, đánh thẳng Long thành. Vì Long thành nơi người Hung Nô tế lễ trời đất tổ tiên, quân Hán trước giờ chưa từng qua đến nơi này, cho nên chiến dịch lần này Vệ Thanh thắng lợi khiến Hung Nô một phen chấn động kinh hồn. Song thảm nhất chính là Lý Quảng, toàn quân lật chìm lại còn bị bắt, may sao dựa vào võ nghệ cao cường nửa đường một mình trốn thoát.

Từ đó Vệ Thanh nhất chiến thành danh, được phong thẳng làm Quan nội hầu. Đương thời đối với võ tướng mà nói, phong hầu là chuyện rất khó. Lý Quảng đánh cả một đời nhưng trước giờ vẫn chưa được phong hầu. Về sau Lưu Triệt lại càng tín nhiệm Vệ Thanh mà Vệ Thanh cũng hay lập chiến công. Năm 124 tTL, trong chiến dịch quan trọng với Hung Nô: trong cuộc chiến Mạc Nam, Vệ Thanh đã giành toàn thắng. Lưu Triệt vô cùng kích động, ở trong quân bái Vệ Thanh làm Đại tướng quân. Đầu thời Hán tới nay mặc dù có chức vị này nhưng chưa ai có thể đảm nhiệm. Vì vậy lần này Vệ Thanh được phong làm Đại tướng quân chứng tỏ đó là thời kỳ tột đỉnh trong cuộc đời Vệ Thanh. Tuy nhiên kể từ sau đó, vận mệnh của ông cũng bắt đầu tụt xuống.

Cùng lúc Vệ Thanh không ngừng giành được chiến công, Lưu Triệt rõ ràng có cảm giác là công cao chấn chủ (bề tôi công nhiều lấn át cả vua). Vả lại Vệ Thanh dẫn binh đánh bên ngoài, cách xử thế không ai bắt bẻ được, rất được người đương thời kính trọng. Lưu Triệt cảm giác một áp lực trước đây chưa từng có, ông quyết tâm phải giảm bớt mức độ ỷ lại vào Vệ Thanh. Thế là ông lại lần nữa lôi lên một vị tướng tinh: Hoắc Khứ Bệnh, tiến hành đánh ép Vệ Thanh. Trong cuộc chiến Mạc Bắc rất quan trọng giữa Hán–Hung (119 tTL), Lưu Triệt yêu cầu Vệ Thanh trao quyền chỉ huy quân sự cho Hoắc Khứ Bệnh. Mặc dù Vệ Thanh lại may mắn lần nữa đụng quân chủ lực Hung Nô và đánh bại đối phương, nhưng không được ban thưởng gì cả. Từ sau cuộc chiến Mạc Bắc, thời gian dài suốt 13 năm đường đường Đại tướng quân Vệ Thanh lại nhàn rỗi trong nhà không có việc gì. Mà đối thủ cạnh tranh lớn nhất của ông là Hoắc Khứ Bệnh năm thứ hai sau cuộc đại chiến Mạc Bắc không may lìa đời, điều này vẫn không mang lại cho Vệ Thanh một cơ hội nào cả. Năm 106 tTL, Vệ Thanh lìa khỏi nhân thế trong nỗi cô độc.

Lời bàn: cả đời Vệ Thanh lúc vinh quang nhất thì rất ngắn ngủi, chỉ có 10 năm, nhưng so ra may mắn hơn Hoắc Khứ Bệnh một chút. Khác với cái chết thình lình của Hoắc Khứ Bệnh là Vệ Thanh phải ngồi lên hỏa tiễn bay xa mà đi lên và cũng một hỏa tiễn bay xa đó đi xuống. Trong sử liệu không tìm thấy được Vệ Thanh đã phạm sai lầm rõ rệt nào. Điều đó chứng tỏ việc Hán Vũ Đế Lưu Triệt sử dụng Vệ Thanh hoàn toàn là tùy theo ý muốn, muốn dùng thì dùng muốn bỏ thì bỏ, dẫn đến vị tướng giỏi một đời không được lập công lao nhiều hơn.

 

c. Hoàng thái tử mưu phản

Trong cuộc đời Hán Vũ Đế Lưu Triệt ông thích nhất là sử dụng quan lại tàn khốc. Những tên khốc lại này luôn có một đặc điểm đó là tàn nhẫn vô tình. Ngoại trừ hoàng đế ra bất luận là ai phạm pháp chỉ cần mắc vào tay chúng cơ hồ rất khó thoát khỏi xử phạt. Mà những tên khốc lại này thực tế là kẻ chấp hành đúng theo cách nghĩ của Lưu Triệt. Do vậy danh thần trong thời kỳ Hán Vũ Đế rất nhiều nhưng số bị trị tội, tự sát, bị xử tử cũng rất nhiều. Làm phận thần tử không ai không sợ hãi Lưu Triệt.

Sự kiện “hoàng thái tử mưu phản” là sự kiện rất có sức ảnh hưởng phát sinh cuối thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt, nhân viên dính án bị xử tử vượt quá 2 vạn người. Nguyên nhân sự việc có liên quan đến tên khốc lại Giang Sung được Lưu Triệt tin sủng. Giang Sung có thể nói là tên tiểu nhân thực sự, cả đời hắn phấn đấu vì kết giao với phú quý, không từ thủ đoạn. Nhưng vì biết quá nhiều bí mật của thái tử nước Triệu, bị thái tử nước Triệu truy sát. Hắn không chỉ trốn thoát thành công ở nước Triệu mà còn đến kinh thành tố giác thái tử nước Triệu. Lưu Triệt suốt thời gian dài đã muốn làm suy yếu thế lực chư hầu, tự nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội này và bắt đầu gặp Giang Sung. Giang Sung lần đầu tiên khi triệu kiến Lưu Triệt đã làm đủ công việc, nắm rõ ràng rành mạch những sở thích cá nhân và thói quen sinh hoạt… của Lưu Triệt. Thế là hắn bắt đầu được Hán Vũ Đế Lưu Triệt trọng dụng.

Trên thực tế, Lưu Triệt phát hiện Giang Sung đáng dùng chỉ vì Giang Sung là “một con chó điên” ai cũng dám cắn. Đúng lúc có thể nhờ Giang Sung giúp để uy khiếp quần thần. Nhưng Giang Sung quả thực không hàm hồ, sau khi cắn xong quần thần, hắn không bỏ qua luôn cả hoàn thân quốc thích và đắc tội với hoàng thái tử. Lưu Triệt không cho điều này là vậy: “Cho dù là một con chó của ta mà cắn thì cứ đi bắt nó”. Giang Sung không ngờ tới điều này, cứ cho là mình thực sự được sủng. Nhưng hắn cũng nghĩ tới rốt cuộc tuổi tác hoàng đế đã cao (hơn 60 tuổi), sau khi ngài chết vị trí này sẽ là hoàng thái tử rồi. Giang Sung đâu biết làm sao để sửa lại mối quan hệ với hoàng thái tử, chi bằng tìm cách để lật đổ hoàng thái tử đi. Giang Sung biết Lưu Triệt có sự kiêng kỵ lớn nhất là đặc biệt phản cảm với trò vu cổ (một loại thuật yếm bùa thông thường nếu biết ngày tháng năm sinh của người bị yếm thì đem nó khắc lên tượng người gỗ nhỏ, nghe nói trù yếm có tác dụng.) Thế là hắn khuếch đại hóa sự kiện vu cổ trong vụ án mà Công Tôn Kính Thanh – con của Thừa tướng nhiệm thứ 11 Công Tôn Hạ đã phạm phải, tố cáo với Lưu Triệt:

- Thần nhận được tin tức đáng tin là trong cung cũng có chuyện này.

Lưu Triệt nghĩ đến gần đây cũng cảm thấy ngớ nga ngớ ngẩn, liền cho Giang Sung ra tay tra tìm.

Giang Sung kêu người mang theo không ít tượng gỗ nhỏ đi thẳng vào trong cung của hoàng hậu và hoàng thái tử. Hắn giả vờ bắt được tang chứng, hoàng thái tử khó lòng biện bạch. Bất đắc dĩ hoàng thái tử giết luôn Giang Sung, chuẩn bị đích thân sang chỗ phụ hoàng để nói rõ sự tình. Nhưng bọn tùy tùng theo giúp Giang Sung có hai tên quan trọng đã trốn thoát chạy về cáo trạng với Lưu Triệt nói hoàng thái tử mưu phản. Lưu Triệt không tin, phái một tiểu thái giám bên cạnh đi tìm hiểu sự tình. Tên tiểu thái giám này bình thường không quen biết hoàng thái nên không dám đi, tùy tiện đi một vòng rồi về nói hoàng thái tử quả thật mưu phản. Lưu Triệt vẫn không tin, bấy giờ lại cho một người đó là Thừa tướng đương nhiệm Lưu Khất Li đi. Bấy giờ ông ta đang ở trong thành, nghe nói hoàng thái mưu phản cũng không hiểu chuyện gì, vội vàng chạy đến chỗ Lưu Triệt cũng nói hoàng thái tử mưu phản. Như vậy Lưu Triệt không thể không cho rằng hoàng thái tử mưu phản là sự thật. Thế là ông đích thân suất binh dẹp phản, cuối cùng hoàng thái tử bị giết chết, tất cả quan viên và bách tính trợ giúp thái tử đều bị xử tử toàn bộ.

Xong chuyện, Lưu Triệt mới cho điều tra nhiều mặt, phát hiện Thái tử mưu phản hoàn toàn là vu cáo, kết quả do bị Giang Sung cưỡng bức. Thế là lại ra lệnh đồ sát một lượng lớn “các công thần” trợ giúp dẹp loạn hoàng thái tử mưu phản trước đó cũng như tất cả những người liên đới. Trong đó bao gồm luôn cả những quan viên tọa sơn quan hổ đấu, do dự không quyết.        

Lời bàn: toàn bộ sự kiện “hoàng thái tử mưu phản” là hình ảnh rút gọn của cái thuật điều khiển bề tôi của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, tức “người ra sao cũng dùng cả, nhưng dùng ở chỗ đáng dùng và không thể không ràng buộc họ”. Vì vậy bên cạnh ông có rất nhiều hiền thần nhưng cũng có rất nhiều tiểu nhân cũng như những kẻ tầm thường. Sau khi thuộc hạ xảy ra vấn đề, Lưu Triệt đôi lúc có thể mở lưới tha cho nhưng cũng nhiều lúc không mảy may lưu tình ra tay giết chết. Chúng đại thần cho rằng Lưu Vũ Đế Lưu Triệt vui giận bất thường, người người tự nguy.

*

                                        *        *

*

Phương thức trị quốc đầu thời Tây Hán lấy tư tưởng Hoàng Lão làm chủ, khiến nhân nhân có cơ hội nghỉ ngơi dưỡng sức, nước nhà trở nên dần dần sung túc. Nhưng cũng tồn tại một vấn đề hết sức rõ rệt, toàn bộ quốc gia như ở trong trạng thái cát rải. Quyền lực tập trung khá dễ dàng, điều khiển quần thần cũng không phải khó, nhưng làm sao để nhân dân cả nước có thể thống nhất lại một cách cao độ mới là điều khó nhất. Nhưng trong vấn đề đó Hán Vũ Đế Lưu Triệt áp dụng phương thức trị quốc chung cả tư tưởng Nho gia lẫn tư tưởng Pháp gia, chiếm được thành công rất lớn. Tư tưởng Nho gia chú trọng “đức trị”, khi yêu cầu đề cao sự tăng cường tố chất chính mình thì nó tạo nên tác dụng thống nhất tư tưởng. Còn tư tưởng Pháp gia nhấn mạnh “pháp trị”, đối với những kẻ thiếu đức hay không giữ quy tắc cần phải có xử phạt để răn ngừa cho tốt, vì vậy cũng trở thành một loại mô thức được hoàng đế đời sau bắt chước rộng rãi.

 

a. Ngoài Nho trong Pháp

Sau khi trải qua “Văn–Cảnh chi trị” (thịnh trị đời Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế) đầu thời Hán, kinh tế xã hội đã được khôi phục và phát triển rất lớn. Thời Hán Vũ Đế lên ngôi, toàn thể quốc gia xuất hiện cảnh an cư lạc nghiệp. Nhưng càng ngày lại lòi ra hai vấn đề: thế lực cát cứ chư hầu địa phương ngày càng lớn mạnh và bị dân tộc du mục phương Bắc không ngừng quấy nhiễu. Đối với Lưu Triệt mà nói, kỳ thực vấn đề chính là: làm sao để giang sơn họ Lưu ổn định hơn, không thể bị hủy hoại trong tay một đời ông. Lúc này Lưu Triệt chỉ mới 16 tuổi cũng không có cách gì hay.

Năm 134 tTL, Lưu Triệt triệu tập hiền lương và những bậc học sĩ các chốn đi đến Trường An để trưng cầu ý kiến. Trong đó, đối sách của Đổng Trọng Thư làm ông hứng thú nhất. Đổng Trọng Thư cho rằng chỉ có tư tưởng thống nhất mới có thể có pháp độ thống nhất, nhân dân mới có thể có chuẩn mực hành vi thống nhất, như vậy mới có thể củng cố và duy trì giang sơn xã tắc.

Lưu Triệt bèn hỏi:

- Như vậy làm sao để có tư tưởng thống nhất?

Đổng Trọng Thư đề xuất hai điểm:

- Một là yêu cầu thần dân phục tùng quân chủ vô điều kiện, duy trì và nâng cao địa vị cũng như tác dụng của “tư tưởng” nhằm có lợi cho việc tăng cường thể chế quân chủ tập quyền; mặt khác lấy danh nghĩa “Trời” uy nghiêm để chế ước, quy phạm hành vi của quân chủ, dùng phương pháp “trời người cảm ứng” để khuyên răn quân chủ tôn sùng “tư tưởng”.

Lưu Triệt tiếp tục hỏi:

- Vậy tư tưởng của nhà nào của thể làm được tác dụng này?

Đổng Trọng Thư đáp rằng:

- Tư tưởng Nho gia. Vì nó vâng làm theo tư tưởng chính trị nhân từ (nhân chính), nhấn mạnh và giữ gìn luân lí cương thường, lễ nhạc giáo hóa, lấy quy phạm này củng cố đạo đức nhân luân và trật tự xã hội thông thường. Cái chủ yếu nhất là nó rất dễ được nhân dân chấp nhận.

Kỳ thực, câu nói sau cùng của Đổng Trọng Thư mới là điều Lưu Triệt thích nghe nhất. Bấy giờ Đạo gia chủ trương thanh tĩnh vô vi khiến quốc gia không có sức ngưng tụ, giống như đám cát rải rời. Nước chư hầu đều có thể tạo phản, lúc giặc ngoài sang lấn cũng không thể tập trung lực lượng hữu hiệu tiến hành chống cự. Ông biết rằng cần phải thống nhất tư tưởng tạo sự đoàn kết chung quanh quyền lực lấy chính ông làm hạt nhân. Song tư tưởng Nho gia rốt cuộc có làm được không? Ông không biết. Tóm lại, từ trước thời nhà Hán chỉ từng xuất hiện một quốc gia trung ương tập quyền, đó là nhà Tần, nhưng lại bị diệt vong rất nhanh. Nguyên nhân căn bản bị diệt vong là gì? Lưu Triệt cho rằng nguyên nhân trực tiếp là khởi nghĩa nông dân, song nguyên nhân căn bản là bạo chính Tần triều, tức là sử dụng tư tưởng Pháp gia nghiêm hình khốc phạt thống trị quốc gia, nhân dân không chấp nhận. Tư tưởng Hoàng–Lão ngược lại rất được lòng dân, nhưng hiển nhiên không dùng được gì mấy. Thế là Lưu Triệt nghĩ đến tư tưởng Nho gia nhưng không biết kết quả sẽ như thế nào. Hiện tại cuối cùng đã tìm ra một số đáp án qua Đổng Trọng Thư.

Ngay khi Lưu Triệt muốn thử thúc đẩy Nho thuật lại gặp phải sự can dự chính trị thô bạo của bà nội Đậu thái hậu, cải cách chết non trong bào thai. Sự kiện này mặc dù khiến Lưu Triệt mười phần phiền muộn nhưng lại mang đến cho ông một số gợi ý mới. “Ta là hoàng đế, ta cần phải có quyền lực chí cao vô thượng, nhưng hiện giờ ta không có. Tại sao vậy? Cần phải quy định những người như bà nội… không được can dự triều chính. Nhưng bây giờ bà đã can dự rồi phải làm sao?” Trong lúc suy nghĩ miên man thì Lưu Triệt nhận thức rằng thúc đẩy mỗi Nho thuật thôi thì hiển nhiên không được, nó chỉ là một tiêu chuẩn đạo đức. Nếu có người làm trái tiêu chuẩn đạo đức này, chỉ dựa vào khiển trách rõ ràng không được, cần phải bị xử lí. Chỉ có như vậy tiêu chuẩn đạo đức này mới có người tôn trọng. Thế là Lưu Triệt bước dần nhận thức rằng thúc đẩy tư tưởng Nho gia cần phải tiến hành phối hợp chung với tư tưởng Pháp gia. Nếu không thì rất khó để đẩy tới nơi.

Từ sau khi Đậu thái hậu qua đời, Lưu Triệt bắt đầu giương to cờ trống thi hành tư tưởng Nho gia, thông qua nhiều cách bao gồm cả việc đặt ra Ngũ Kinh bác sĩ, dựng nhà Thái học v.v… Đúng như Đổng Trọng Thư đã nói, dân chúng chấp nhận rất mau. Nhưng người của những học phái khác lại trăm phương chống cự. Song chống cự cũng vô dụng, vì thị trường của những tư tưởng học phái đó càng ngày càng ít. Không kể quan quyền nói chi mà ngay cả dân chúng cũng bắt đầu chủ động phê phán. Vì vậy, mặc dù quan phương không đề xuất phương châm “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” nhưng dân chúng lại tự động tiến hành theo. Đương thời, học tập Nho thuật đã trở thành trào lưu xã hội.

Đó là điều mới lúc đầu Lưu Triệt chưa liệu đến. Nhằm thúc đẩy Nho thuật tốt hơn, Lưu Triệt cũng càng mở rộng phạm vi và cường độ xử phạt hơn. Nhưng ông nhắm vào quan viên của trung ương và nước chư hầu nhiều hơn vì làm như vậy mới có tác dụng răn đe. Rất mau dưới sự phối hợp của tư tưởng Pháp gia, tư tưởng Nho gia đã được mở rộng và phổ cập mau chóng. Địa vị chính thống của nhà Hán được dân chúng ưng thuận, địa vị thiên tử của Lưu Triệt cũng được sự tôn trọng rộng rãi. Không những vậy kiểu mẫu thống trị ngoài Nho trong Pháp được kéo dài tiếp tục qua các triều đại.

Lời bàn: làm sao để dân chúng ưng chịu nền thống trị của mình là vấn đề mà mỗi vị đế vương phải đối mặt. Hán Cao Tổ Lưu Bang tuy nói là giành được giang sơn nhưng khiến dân khó mà tin phục, mà nền thống trị của họ Lưu vẫn bị chất vấn nhiều. Thúc đẩy Nho thuật cũng như phối hợp Pháp trị một mặt đã đặt cơ sở lí luận cho giang sơn họ Lưu, mặt khác cũng ngăn ngừa kẻ khác bắt chước theo kiểu của Lưu Bang. Quy căn kết đáy là Hán Vũ Đế Lưu Triệt thống nhất được tư tưởng, khiến dân chúng chấp thuận sự thống trị của ông.

    

b. Chế độ xét cử

Cuối thời nhà Tần, câu nói “vương hầu khanh tướng há ra giống gì?” của Trần Thắng, Ngô Quảng đều phát xuất từ tâm tình trong suy nghĩ của lão bách tính bình dân muốn trở thành vương hầu tướng tá, cũng chính là nhờ cuộc khởi nghĩa lần này các anh hùng liên hợp lại lật đổ nền thống trị Tần triều hùng mạnh, Hán Cao Tổ Lưu Bang cũng thừa cơ thống nhất thiên hạ xây dựng vương triều Đại Hán.

Dù lão bách tính kêu gào biết bao nhưng vẫn không được sự trọng thị của kẻ đương triều. Thế là đến đầu thời Hán Vũ Đế xuất hiện cảnh thiếu thốn nhân tài cực độ. Do vì vương hầu khanh tướng đã có dòng dõi, họ chỉ cần kéo dài cơ nghiệp để lại của tổ tiên đến mức có thể thôi. Chỉ cần không mưu phản thì cơ hồ cũng thành hạng không lo cái ăn cái mặc. Nhưng lão bách tính có thể trở thành vương hầu khanh tướng hoặc giả nói trở thành quan viên bình thường nói chung chỉ có thể dựa vào việc lập chiến công thời chiến tranh thôi. Nhưng bấy giờ là niên đại hòa bình, kẻ thù đối ngoại Hung Nô cũng áp dụng chính sách hòa thân thì đâu cần đi lập chiến công làm gì? Thế thì nhân tài rõ ràng chỉ xuất hiện một khoảng thời kỳ thôi. Chính vì nguyên nhân nó Hán Vũ Đế mới đưa ra chế độ xét cử. Chế độ xét cử là trước tiên làm khảo thí (cuộc thi), có ý cử làm quan. Thời kỳ Hán Vũ Đế yêu cầu các quận quốc mỗi năm cử Hiếu liêm (hiếu tử và quan liêm) mỗi một người. Ngoài ra còn có Mậu tài, Hiền lương phương chính, Hiền lương văn học, Minh kinh, Minh pháp v.v… Nho sinh được xét cử lên đưa đến trung ương làm lang quan.

Chế độ này tương đương với chế độ khoa cử được đưa ra thời kỳ Tùy – Đường, về trình độ nhất định cũng là đáp trả tiếng kêu gào bao phen của lão bách tính. Nó khiến cho nguồn lực nhân tài oan như dòng nước chết đương thời được hoạt động mau chóng. Nhưng đặc sắc lớn nhất của chế độ ấy chính là đạo đức bậc nhất, tức ngoại trừ phải có tài năng nếu bạn là con hiếu, là người ưa thiện thích thí, bậc đức cao vọng trọng… đều có thể được tiến cử làm quan. Ngưỡng cửa này so với chế độ khoa cử về sau mà nói còn thấp rất nhiều, nhưng ý nghĩa lại vô cùng trọng đại, khiến lão bách tính đi lên đường sĩ, có khả năng được phong làm quan viên. Đây cũng là nhân tố quan trọng nhất trong thời kỳ Hán Vũ Đế nhân tài các lộ nườm nượp. Trước đã giới thiệu qua Thừa tướng nhiệm thứ 10 trong thời Hán Vũ Đế là Thạch Khánh, người này thật ra không có tài năng gì. Ông có thể trở thành Thừa tướng hoàn toàn là vì phương thức xử thế theo kiểu người dưới nền gia giáo cực nghiêm cũng như trung thành vô hạn đối với hoàng đế. Còn Thừa tướng nhiệm thứ 6 Công Tôn Hoằng cũng là liên tục hai lần được cử Hiếu liêm cuối cùng đi lên con đường sĩ đồ.

Ngoài ra, chế độ ấy còn có một tác dụng trọng yếu khác chính là tiến tới đẩy nhanh hơn tốc độ mở rộng và phổ cập Nho thuật. Tiêu chuẩn đạo đức là căn cứ tư tưởng Nho gia mà có, nếu muốn trở thành hiền giả về mặt đạo đức ắt cần phải hiểu tư tưởng Nho gia. Vì vậy trên thực tế chế độ xét cử có thể được coi là cuộc thi thố phối hợp để thúc đẩy Nho thuật, nhưng mục đích căn bản của nó là nhằm kích hoạt thị trường nhân tài trong dân gian.

Lời bàn: thời kỳ Hán Vũ Đế chính sách tương tự với chế độ xét cử rất nhiều. Nhưng so với những chính sách khác mà nói, chế độ xét cử tương quan lợi ích thiết thân với lão bách tính, khiến lão bách tính bình thường có khả năng được phong thê ấm tử. Chính sách thực thực tại tại này so với loại chính sách sáo rỗng tế trời tế Khổng của hoàng đế được dân chúng hoan nghênh hơn. Đồng thời cũng có thể dấy lên tác dụng thống nhất tư tưởng.

  

c. Quan dinh lũng đoạn

Đầu thời Tây Hán, bắt đầu từ vua Cao Tổ đến hai đời hoàng đế Văn – Cảnh, thủy chung quán triệt tư tưởng Hoàng Lão “vô vi nhi trị”, kiên trì chính sách kinh tế “nghỉ ngơi cùng dân”, tận lượng giảm thiểu việc nhà nước can dự vào hoạt động kinh tế, cho phép tư nhân làm những việc nấu muối, rèn sắt, đúc tiền v.v… thu lợi rất lớn, quan hệ đến hoạt động công thương nghiệp “quốc kế dân sinh”. Nhưng làm những nghề nghiệp này cần có giá thành khá lớn, ngưỡng cửa khá cao, thương nhân bình thường căn bản không thể tiến vào. Vì vậy những nghề nghiệp này thực tế bị phú hào, vương hầu và các bậc quyền quý chốn triều đình lũng đoạn, trở thành công cụ để họ bóc lột nông dân và làm rối loạn kinh tế xã hội. Xuất hiện tình cảnh nước tiến dân lùi, của cải xã hội càng ngày càng tập trung vào tay số người cực ít, trăm họ mang tiếng oán than. Những điều này khiến Hán Vũ Đế không chịu đựng nổi, vì vậy Lưu Triệt thực hành một loạt công việc cải cách kinh tế, trọng điểm là đem những hành nghề “quốc kế dân sinh” thâu về quốc hữu, lũng đoạn kinh doanh.

Thực thi cụ thể bao gồm quan dinh diêm thiết (muối và sắt), thâu đều, bình chuẩn, chính sách lũng đoạn kinh tế, mục đích là khống chế lợi nhuận kếch xù trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, ổn định vật giá và đem một phần lợi nhuận chuyển hóa trực tiếp thành thu nhập tài chính của chính phủ. Năm 119 tTL, Lưu Triệt hạ lệnh chuyển diêm thiết thuộc về Đại tư nông quản lí, quy định không cho phép dân gian tự tư nấu muối rèn sắt nữa, cũng không cho phép tự tư buôn bán muối, sắt. Cách làm cụ thể: sản xuất muối là do nhà nước chiêu dân tự sắm tiền của, Diêm quan sẽ cung cấp công cụ và lương thực để dân nấu muối dưới sự coi xét của Diêm quan và toàn bộ nộp cho nhà nước, sau đó nhà nước phân phối lại cho nhân dân, cá nhân không được giữ riêng. Đây là một biện pháp sản xuất kinh doanh do công tư liên hợp nhưng do nhà nước thống nhất mua bán. Cứ như thế sẽ ổn định được giá thành tiêu thụ muối, ngăn ngừa hữu hiệu hiện tượng “thiếu muối” gây hoang mang cho người dân cũng như nạn “cướp muối” xảy ra nhiều lần. Về quan dinh trông coi đồ sắt thì đặt chức Thiết quan ở những quận huyện nào có mỏ sắt, tổng cộng có 48 nơi; những quận huyện nào không có mỏ sắt thì đặt Tiểu thiết quan để thu sắt cũ rèn lại, toàn bộ đồ sắt đều do Thiết quan phụ trách sản xuất và tiêu thụ. Để đảm bảo nông dân có thể được giá thành thấp thì phải mua bán những trang bị cày cấy cần thiết.

Sau đó, Lưu Triệt lại dốc sức lớn thi hành phép thâu đều và phép bình chuẩn, tăng cường hơn sự can thiệp và khống chế của chính phủ trung ương vào hoạt động kinh tế xã hội. Chính phủ trung ương lệnh cho quan lại các nơi đem những cống phú cần trưng thu chiết thành đặc sản vùng miền thu dâng lên, sau đó theo giá thành thương buôn bấy giờ đem những sản phẩm nhu yếu đó chuyển sang các vùng để kiếm lợi, như vậy chính phủ thực hành kiểu thương nghiệp quan dinh thay thế thương nhân kiếm lời bội phần, giành lấy lượng lớn lợi nhuận thương nghiệp từ tay thương nhân. Đây chính là “thâu đều”.

Còn “bình chuẩn” chính là đặt chức Bình quẩn quan tại kinh sư, tiếp nhận tiền của gom góp từ các nơi chuyển đến kinh sư, đồng thời lệnh Công quan chế tác công cụ vận chuyển như xe cộ… tùy lúc chuẩn bị sẽ đem những tiền của này điều vận đến các nơi tiêu thụ. Như thế, quan phủ hoàn toàn nắm tiền của chủ yếu của cả nước, ở đâu vật giá cao thì sẽ điều tiền của trong tay đến nơi đó bổ sung; đồng thời thu mua lại những nơi hàng hóa có giá thấp rồi chuyển đến địa phương khác đang có vật giá cao để tiêu thụ. Chính phủ làm vậy đã rút giảm không gian kiếm lợi của thương nhân trong dân, đồng thời khiến những thương nhân vốn nhỏ phải về quê làm ruộng nông lại còn có thể kiếm được lợi nhuận thương nghiệp kếch xù (do thương nhân trong dân kiếm được), tăng thêm thu nhập tài chính.

Diêm thiết quan dinh, phép thâu đều, phép bình chuẩn là thực thi cải cách chủ yếu trong thời kỳ Hán Vũ Đế Lưu Triệt, trong tình hình nông dân gánh thuế má không quá nhiều, biện pháp này quả thật đúng đắn để thỏa mãn nhu cầu tài chính bao la của nhà vua, nhưng cũng mang lại vấn đề nhất định. Ví dụ như Diêm thiết quan dinh vì hành vi bất chính của một số quan lại diêm thiết địa phương cũng như trong một kinh doanh sản xuất thống nhất quy mô lớn chắc chắn sẽ có vấn đề, sau khi đặt Diêm thiết quan dinh rồi cũng có rất nhiều điểm bất lợi với nông dân. Ngoài ra, nhằm gia tăng thu nhập, chính phủ định giá bán muối sắt quá cao nhưng lại coi thường chất lượng sản phẩm và cải tiến các mặt loại hàng. Đồng thời một số quan lại thường xuyên cưỡng chế nông dân mua hàng nên càng tăng thêm gánh nặng và bất tiện cho nông dân.

Lời bàn: quan dinh lũng đoạn làm lợi thô bạo và ép buộc vị lợi một mức nhất định là buôn bán vô pháp. Trong thời kỳ nhất định thì có ý nghĩa tích cực; nhưng nếu xuất hiện tình trạng quản giám không nghiêm hoặc quan–thương cấu kết thì ngược lại sẽ tăng thêm gánh nặng cho nông dân. Nhưng theo sử liệu ghi chép, phương thức này trong thời kỳ Hán Vũ Đế quả thực đã có tác dụng nhất định trong các mặt tăng thu nhập tài chính và giữ ổn định xã hội… Nhưng về căn bản phương thức này khiến trăm họ đều biết sự tồn tại của nhà nước thống nhất sẽ làm chủ cho họ về phương diện nào đó.

*

*        *

*


Việt dịch: Nguyễn Thành Sang

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th