Chuyển đến nội dung chính

BỒ-TÁT DIỄN NGHĨA: Hồi thứ 1

 

]

NAM TRUYỀN PHẬT GIÁO TÙNG THƯ
(quyển 2)


BỒ-TÁT


DIỄN NGHĨA

 

 

Biên soạn: DIỆU TRAI cư sĩ

(Nguyễn Thành Sang)


 

NAMO TASSA BHAGAVATO ARAHATO SAMMĀSAMBUDDHASSA

Lễ kính đức Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chính Đẳng Giác.

 


Hồi thứ 1.
Núi Linh Thứu, Phật hiện thần thông
Thành Bất Tử, đại sĩ tu hành

Có bài thơ rằng:

Lành thay lợi ích bậc Chân tiên,

Tam Bảo sáng soi dẹp tùy miên.

Hộ thế viên thành công đức quả,

Chướng ngại dẹp xong chứng đạo thiền.

Tôi nghe như vầy:

Một thuở nọ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật trú trên núi Linh Thứu (Gijjha-kūtạ), thuộc nước Ma-kiệt-đà (Magadha).  

Khi đó, Thượng Đế của thế giới Sa-bà là Phạm Thiên (Brahmā) bỗng hiện ra, chắp tay bạch Phật (Buddha) rằng:

- Ôi chúng sinh trên đời bị bụi bẩn che mắt. Hỡi đức Thế Tôn (Bhagavant)! Xin Ngài vì thương chúng sinh mà thuyết pháp. Hỡi đấng Minh Hạnh Túc (Vijjā-caraa-sampanna), ngài đã thụ thân cuối cùng, sau đời sống này không còn đời sống nào nữa, xin đức Thế Tôn hãy thương xót muôn loại hữu tình.

Đức Phật đáp lời:

- Này Phạm Thiên! Chư Thiên và nhân loại vốn chẳng biết đức Phật tối thượng là ai? Thần lực và tuệ lực thế nào? Phật lực lợi ích thế gian ra làm sao? Này Phạm Thiên, hãy trông đây! Ta sẽ thị hiện Phật lực vô thượng hóa ra một con đường trang hoàng bằng châu báu giữa không trung.

Lúc bấy giờ, chư Thiên sáu cõi Trời Dục giới (Kāma-dhātu-deva) và Phạm Thiên giới nghe Phật nói vậy đồng tâm hớn hở. Bất chợt cả mặt đất và cõi trời cùng tuôn ánh sáng, ngay cả địa ngục tối tăm nhờ ánh sáng ấy mà sáng rỡ hẳn lên, chẳng còn bị bao trùm bởi màn đêm đen kịt nữa. Lúc đó, Trời, người, Càn-thát-bà (Gandhabba), quỷ La-sát (Rakkhasa) v.v… đều cảm thấy trên người tỏa ánh sáng, ánh sáng khuếch tán rộng rãi từ cõi này sang cõi khác. Tất cả khác miệng cùng lời khen rằng:

- Lành thay! Đạo sư là tối thượng trong hữu tình, không ai sánh bằng Ngài. Ngài là đấng có đại uy lực đáng để trời người cúng dường, Ngài có trăm tướng phước thị hiện thần thông chẳng thể nghĩ bàn. Hỡi đấng Đủ Mắt, Phật là tối thắng trong loài người, Ngài đã nhận lời thỉnh của Thượng Đế (Phạm Thiên) để tạo hóa thành con đường hành thiền trang sức bằng tất cả châu báu đẹp nhất trên đời.

Quả thực, núi Tu-di (Sineru) cao nhất trong mười ngàn thế giới đang làm trụ chống lên con đường châu báu được biến hóa. Đất phẳng và lợp ván bằng vàng ròng có hai bên hành lang thiết kế xảo diệu. Trên đất rải bằng ngọc ma-ni chói sáng tất cả những nơi vuông góc chẳng khác gì ánh mặt trời. Kìa, trên mình bậc Thắng giả, đấng Chính Đẳng Giác có ba mươi hai tướng đại trượng phu đang phóng quang thù thắng, Ngài bước đi trên con đường ấy. Tất cả chúng thiên thần bay lượn quanh Ngài, rải xuống nào là hoa mạn-đà-la, hoa sen, hoa ba-lợi-chất-đa-la. Các thiên thần khắp mười ngàn thế giới đều hoan hỷ vân tập đảnh lễ đức Thế Tôn. Bấy giờ, các vị Thiên tử, Càn-thát-bà, La-sát, Rồng, Kim sí điểu và Khẩn-na-la đều chắp tay lơ lửng giữa hư không như vầng trăng mọc giữa trời, tất cả đều đảnh lễ đức Như Lai. Chúng tiên ở các cõi Quang Âm thiên, Biến Tịnh thiên, Quảng Quả thiên, Hữu Đỉnh thiên đều mặc y phục sạch sẽ đến chắp tay cung kính lạy Phật, rải các loại hoa trời mạn-đà-la trộn với mạt gỗ đàn hương bay khắp không trung rồi kêu lên:

- Ô hay! Thắng giả, đấng từ bi lợi ích thế gian. Ngài là Đạo sư, là pháp tràng, là trụ cột, chốn quy y, là ngọn đèn của tất cả chúng sinh đấy, thưa đấng Lưỡng Túc Tôn!

Các thiên nhân khắp mười ngàn thế giới có đại uy lực đều vây quanh lễ bái đức Phật, vui mừng hớn hở, tràn đầy niềm tin thanh tịnh, họ cúng dường hoa ngũ sắc lên đức Phật.

- Ôi, thật chẳng thể nghĩ bàn! Chúng con chưa bao giờ, chưa bao giờ gặp sự bất khả tư nghị như thế mà dựng cả lông tóc.

Các thiên tử ngồi trên cõi Trời ngó xem, thấy cảnh tượng chẳng thể nghĩ bàn, ai nấy cũng bật tiếng cười to. Họ đứng dạt hai bên con đường kinh hành trên hư không kia đông như cỏ rậm mọc ven đường, lòng quá hớn hở chắp tay lạy Phật. Bấy giờ ngay cả các vị Long vương vốn có thiện căn, trường thọ và uy lực cũng hoan hỷ lễ bái cúng dường đức Phật, họ căng chiếc trống da vỗ lên liên hồi hòa theo cơn gió. Có vị thổi loa, vị đánh trống nhỏ để cùng nhau hưởng ứng. Khi họ nghe thấy âm thanh hy hữu “Phật-đà, Phật-đà” (Buddha, Buddha), vô cùng hoan hỷ với điều đó, họ chắp tay cất tiếng hoan hô, cất lời kệ tụng khen ngợi đức Phật. Nhiều vị còn ca hát, reo hò, tấu nhạc, vỗ tay, nhảy múa rồi rải hoa mạn-đà-la trộn mạt gỗ chiên-đàn lên đức Phật. Họ reo lên:

- Thưa Đại Hùng! Giống như dưới bàn chân Ngài có tướng bánh xe chạm tràng phan, kim cương và có hình chữ vạn. Cũng vậy, nhan sắc, giới hạnh, thiền định và trí tuệ của Phật là vô song, chuyển Pháp luân giải thoát không gì bằng. Thân Ngài có sức bằng sức mạnh mười con voi, sức thần thông không gì sánh bằng được, với việc chuyển Pháp luân cũng giống vậy. Mọi công đức của Ngài quá đủ để trở nên một vị đại hiền Thế Tôn từ mẫn. Ngài đáng được cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen. Thật vậy, Đại Hùng! Mọi điều Ngài có đều không ai sánh nổi.

Bấy giờ, Thượng thủ Thanh văn Trí tuệ đệ nhất Xá-lợi-phất (Sāriputta) đứng trên núi Linh Thứu quán sát lễ kính đức Phật. Quán xong, ngài khởi ý triệu tập năm trăm vị Tỳ-khưu đến. Những vị này đều là A-la-hán, các lậu đã tận, việc cần làm đã làm, không còn cấu uế, vừa biết ý niệm của Xá-lợi-phất họ lập tức vụt biến trong khoảng sát-na đến tụ tập ngay. Xá-lợi-phất liền bảo:

- Này các hiền giả! Phật mới thị hiện thần thông nhiếp hộ thế gian. Bây giờ chúng ta hãy sang lễ kính Ngài. Nào, chúng ta hãy lên đường đến lễ bái đức Đạo sư Thắng giả để hỏi những điều còn thắc mắc.

Các Tỳ-khưu A-la-hán kia đều thâu nhiếp các căn lại và đáp:

- Vâng!

Tức thì chư vị dùng thần thông cùng Đại trí Xá-lợi-phất dịch chuyển đến chỗ đức Phật. Mới trông hình sắc và quang minh thù thắng của đức Thế Tôn, chư vị sung sướng không kìm lòng được bèn đến chắp tay lạy dưới chân Phật. Xá-lợi-phất dẫn đầu Tăng chúng quỳ dài chắp tay cung kính lễ bái. Vừa hay mây đen kéo đến hiện hình một người hệt như đóa bông sen xanh chớm nở, mọi người ngó xem ai, thì ra là tôn giả Đại Mục-kiền-liên (Mahā-Moggallāna).

Từ xa lại có đoàn người đi tới. Nhìn kìa, bậc đại đầu-đà Ma-ha Ca-diếp (Mahākassapa) óng ánh như vàng ròng tinh luyện từng được đức Phật khen ngợi về nếp sống đơn sơ và khổ hạnh. Ngoài ra, còn có nhóm người do Thiên nhãn đệ nhất A-na-luật (Anuruddha) dẫn đầu, vốn là bậc trưởng bối trong dòng họ Thích-ca của Phật. Lại có Trì luật đệ nhất Ưu-ba-li (Upāli), lại có Thuyết pháp diệu nghĩa đệ nhất Mãn Từ Tử (Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử: Puṇṇa Mantānī-putta). Biết tâm của đại chúng, đức Đại Hùng Thích-ca Mâu-ni khéo dùng thí dụ để nói về đức độ của mình nhằm dứt trừ nghi hoặc:

- Chúng sinh dù có đông chật cả núi Thiết Vi, dù vô biên khắp cõi hư không, tính toán tới bốn A-tăng-kỳ kiếp cũng không ra kết quả, Phật trí vô lượng không tài nào biết nổi. Thần thông của Ta tại sao lại bất khả tư nghị? Việc chưa từng có hôm nay tại sao lại làm các ngươi phần đa nổi dựng lông tóc? Đời trước khi Ta còn là thiên tử trên cõi Trời Đâu-suất (Tusita), lúc ấy tên Ta là Thiện Tri Túc (Santusita). Một hôm chư Thiên khắp mười ngàn thế giới tụ họp lại để khuyên nhủ Ta rằng:

“Hỡi Thiên vương, hỡi bậc Đại Hùng! Nay đã phải thời, hãy thác vào bụng mẹ để độ trời người giác ngộ con đường Bất diệt”.

- Thế là Ta biến mất khỏi Trời Đâu-suất nhập vào thai mẹ, nhất thời mười ngàn thế giới đại địa chấn động. Khi Ta sinh từ thai mẹ ra, tâm vẫn giữ chính trí, mười ngàn thế giới lại rền tiếng chấn động. Khi Ta lớn lên, Ta bỏ nhà xuất gia và thành đạo dưới cội Bồ-đề, sau đó chuyển Pháp luân.

Thật chẳng nghĩ bàn nổi! Đại đức của chư Phật làm hơn mười ngàn thế giới sáu điệu vang động, ánh sáng rộng lớn không thể nghĩ bàn làm lông tóc người ta dựng ngược, trông lúc đó đức Phật chẳng khác gì con bò chúa trong loài người. Đức Phật thị hiện thần thông trên con đường kinh hành, vừa đi vừa khai thị, Ngài cứ đi thẳng chẳng phải quay ngược lại. Bấy giờ, Đại trí Xá-lợi-phất bèn hỏi bậc Đạo sư:

- Thưa Đại Hùng! Ngài quyết ý trở thành Phật như thế nào? Thưa thượng nhân, hồi lúc nào Ngài chí tâm cầu Vô thượng Bồ-đề?

Phật bảo:

- Này Xá-lợi-phất! Như Lai đã phát nguyện tu hành Thập Độ, nhờ vậy mà thành Phật.

- Thưa, Thập Độ là gì ạ? – Xá-lợi-phất hỏi.

Phật đáp:

Thập Độ tức là Ba-la-mật. Đó là Bố thí, Trì giới, Xuất ly, Trí tuệ, Tinh tiến, An nhẫn, Chân thật, Quyết ý, Từ tâm và Xả tâm.

Xá-lợi-phất hỏi:

- Bạch Thế Tôn! Ngài đã tu Thập Ba-la-mật thế nào? Quả của Thập Ba-la-mật như thế nào?

Giọng nói của tôn giả Xá-lợi-phất ngọt ngào như tiếng chim Ca-lăng-tần-già (Karavīka). Đức Phật biết nay đã hợp thời, lại vì lợi ích thế gian, bèn ngồi im chính định dùng Túc mạng thông soi lại các kiếp quá khứ, Phật bảo:

- Lắng nghe! Lắng nghe! Những điều sắp kể sẽ làm các ngươi khởi tâm vui mừng, như nhổ mũi tên ưu bi, thành tựu mọi sự. Hãy chính tâm ý đi! Như tỉnh cơn mê say, gạt nỗi ưu sầu, đây là con đường khiến thoát khỏi luân hồi và diệt mọi khổ não.

Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:

- Nguyện ưa muốn nghe!

Thế Tôn bèn kể cho hội chúng nghe về nhân duyên quá khứ.

Đúng là:

Giáo chủ từ bi nghĩ lợi lành,

Kể duyên quá vãng độ quần sanh.

Tư lương Giác ngộ lo trau kỹ,

Bồ-tát viên tu Phật địa thành.

*

                                                       *             *                 

*

Ngày xửa ngày xưa, cách đây bốn A-tăng-kỳ và mười vạn đại kiếp, có một tòa thành thị tên là Bất Tử (Amaravatī). Đây là một thành phố có những kế hoạch hay về mọi phương diện, nó rất xinh đẹp và khiến người ta thích thú. Bốn bề là đất trống xanh biếc tươi đẹp, có rất nhiều cây cối rủ bóng xanh mát và hoa cỏ mọc sum suê. Nơi đây có vật thực đầy đủ và có các món đồ đa dạng cung phụng cho con người tiêu khiển. Thành phố này khiến cho chư Thiên và nhân loại đều cảm thấy ấm lòng. Có mười loại âm thanh thường vang lên trong thành phố, tức là: tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trống to, tiếng trống nhỏ, tiếng đàn, tiếng hát, tiếng kèn, tiếng vỗ tay và tiếng mời ăn uống. Thành thị cảnh sắc lộng lẫy, dân chúng an cư lạc nghiệp, có mọi đặc trưng của một chốn thượng sư kinh đô muôn đời, nhà cửa san sát, lầu son gác tía, từ nhà đến phố trang hoàng sặc sỡ bằng bảy báu: kim cương, vàng, bạc, ngọc mắt mèo, trân châu, ngọc thúy và san hô. Khách ngoại lai thường chọn đến đây để kinh doanh lập nghiệp, phồn vinh như chốn Địa đường Thiên giới.

Trong thành Bất Tử có một vị Bà-la-môn tên là Thiện Tuệ (Sumedha), giàu có vô cùng, tiền tài và ngũ cốc sắp lại chất chồng kể đến ức vạn. Cha mẹ ngài đều là hậu duệ của gia tộc Bà-la-môn. Vì vậy ngài xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn thuần chủng và chính thống. Mẫu thân ngài là một vị nữ nhân có đủ mọi đức hạnh. Người ta không thể làm ô nhục xuất thân của ngài, như nói: “Hắn ta sinh ra trong dòng tổ tiên bảy đời đều là gia tộc hạ tiện”. Ngài cũng là một người không thể bị ô nhục hay khinh thường. Sự thật thì ngài có huyết thống Bà-la-môn thuần chính và có dáng vẻ đẹp đẽ phi phàm.

Thời trẻ ngài từng đi học, rành về chú thuật, thông thạo ba bộ Phệ-đà (Veda) là: Lê-câu (Iru), Dạ-nhu (Yaju) và Sa-ma (Sāma), có thể tụng đọc lại cho mọi người mảy may không sót, lại am tường chiêm tinh, bói tướng, sử truyện, điển tích, Ngài cũng tinh thông nhiều môn học vấn được truyền thừa của Bà-la-môn, đặc biệt luôn say mê tìm tòi Chính Pháp. Tuổi vừa nhú thì chẳng may song thân thác bệnh qua đời, người quản gia trông coi tài sản trong nhà mang sổ bạ làm bằng sắt mở cho ngài xem kho tàng trong nhà mình nào vàng, nào bạc, ma-ni, chân châu rồi nói với Thiện Tuệ:

- Thưa thiếu gia! Bao nhiêu của cải này là tài sản mà mẹ ngài để lại, còn bấy nhiêu của cải kia là do cha ngài để lại, còn đống của cải này là tài sản của tổ tiên ngài để lại.

Ông kể cho Thiện Tuệ nghe về những mớ tài sản này do tổ tiên bảy đời để lại, sau đó nói:

- Ngài có thể tùy ý sử dụng của cải này.

Sau đó ông giao lại di sản thừa kế cho ngài.

Rồi một hôm, khi tĩnh tọa một mình trên lầu, Thiện Tuệ nghĩ rằng: “Tái sinh là khổ, thân hoại cũng là khổ. Nhưng thân của ta vốn dĩ sinh, già và bệnh. Ta sẽ mong không già, không chết, an lạc bình ổn.”

“Nếu ta có thể xả bỏ không một chút chấp trước cái thân xác đầy những thứ ô uế như nước tiểu, phân, mủ, máu, dịch, đờm, nước miếng, nước mũi v.v… này thì không phải quá tốt hay sao?”

“Chắc chắn có một con đường thú hướng Niết-bàn tịch tĩnh, không thể không có được. Ta sẽ tìm kiếm thiện đạo thú hướng Niết-bàn này nhằm giải thoát sự trói buộc của sinh mạng”.

“Giống như thế giới này vừa có khổ (dukkha) cũng có lạc (sukha), như vậy, có sinh tử luân hồi dẫn đến khổ thì nhất định cũng có Niết-bàn diệt khổ”.

“Lại nữa, có nóng nhất định cũng có lạnh, như vậy, có lửa của tham–sân–si thì nhất định cũng có Niết-bàn dập tắt ba ngọn lửa này”.

“Lại nữa, có ác nghiệp cũng có thiện nghiệp, như vậy, có tái sinh thì nhất định cũng có Niết-bàn dừng lại sự tái sinh”.

Sau đó, ngài càng đi sâu vào suy nghĩ: “Thí như có người rớt xuống hố phân dính đầy phân dơ dáy, nhìn thấy ở đằng xa có có một cái ao nước trong mát điểm năm nhành hoa sen, sau khi người đó thấy ao sen mà vẫn không chịu đi trên con đường hướng đến nó, vậy đó đâu phải lỗi của ao sen mà là lỗi của chính kẻ đó. Cũng như vậy, trên đời này có ao nước Niết-bàn bất tử cho mọi người tắm gột phiền não trong tâm, nếu mọi người không tìm đến ao lớn Niết-bàn này vậy đâu phải là lỗi của Niết-bàn”.

“Lại nữa, nếu người bị địch vây khốn, có con đường tẩu thoát nhưng lại không chạy, vậy đâu phải là lỗi của con đường đó; cũng như vậy, nếu có người bị giặc phiền não vây khốn, thấy có con đường lớn thông qua ngôi thành hoàng kim Niết-bàn rất an toàn mà vẫn không muốn chạy đi thì đâu phải là lỗi con đường lớn ấy”.

“Lại nữa, nếu người lo mắc trọng bệnh gặp thầy thuốc giỏi lại không cầu chữa chạy, thế thì không phải lỗi của lương y; cũng như vậy, nếu người nào bị căn bệnh phiền não hao mòn, có minh sư lại không thỉnh giáo vậy đâu phải lỗi của minh sư”.

Sau khi suy xét như vậy, ngài lại quán sát làm sao để xả bỏ thân thể chính mình:

“Nếu có người gánh xác của một con vật trên vai, họ sẽ quăng bỏ cái thân xác dơ dáy đó, thỏa ý dạo đi một cách tự do tự tại và vui vẻ. Cũng như thế, ta sẽ buông bỏ cái thể xác mà thực tế chỉ là đầy những trùng loại và thứ bất tịnh, rồi hướng đến tòa thành Niết-bàn”.

“Lại nữa, nếu có người sau khi đi đại tiện trong nhà xí rồi, bỏ chúng đi mà không thèm ngoảnh lại; cũng như thế, ta sẽ buông bỏ cái thể xác mà thực tế chỉ là đầy những trùng loại và thứ bất tịnh mà hướng đến Niết-bàn”.

“Lại nữa, nếu một vị chủ thuyền có một con thuyền cũ kỹ, hư hoại, te tua và rò rỉ thì ông ta sẽ chán ghét mà quẳng nó đi; cũng như vậy, đối với cái thân xác có chín lỗ không ngừng chảy ra những thứ ô uế, sẽ bỏ nó đi mà hướng tới Niết-bàn”.

“Lại nữa, nếu có người mang đồ rất quý báu trong mình chẳng may cùng đường với bọn trộm cướp, nhìn thấy sự nguy hiểm khi bọn cướp cứ ngấp nghé món bảo vật, người đó sẽ bỏ món báu ấy và đi đến nơi an toàn; cũng như vậy, do nghiệp thiện khi bị cướp đi cứ làm ta cảm thấy lo sợ, ta sẽ bỏ đi thân thể như kẻ cướp đầu sỏ rồi tìm kiếm con đường để chắc chắn thông qua Niết-bàn cho ta vui vẻ an toàn”. Khi người ta không như lý tác ý, cũng như bị sự kích động của tham và sân, thân thể này sẽ biến thành tên cướp đi sát sinh, trộm cắp… bỏ đi báu vật thiện nơi mình, vì vậy thân thể này giống như tên cướp đầu sỏ.

Sau khi dùng phương thức thí dụ để suy xét về sự xuất ly, Thiện Tuệ tiếp tục nghĩ: “Sau khi tích lũy quá chừng tài vật, cha ta, ông nội ta, cũng như tổ tiên bảy đời nhà ta lúc qua đời cũng chẳng mang đi một đồng một chữ gì. Song ta sẽ tìm ra một phương pháp để đưa chúng đến Niết-bàn. Ta sẽ bố thí để biến tài sản đó thành thiện nghiệp, ta sẽ hướng thiện quả đó đến sự chứng ngộ Niết-bàn”.

Nghĩ vậy rồi, ngài đi tấn kiến quốc vương và nói rằng:

- Tâu bệ hạ, vì trong tâm của thần tràn đầy nỗi lo sợ đối với sinh, già v.v… thần muốn xuất gia làm ẩn sĩ. Thần có của cải giàu có ngàn vạn, xin nhà vua cứ thâu hết đi.

- Trẫm không cần tài sản của khanh. Khanh có thể dùng cách nào đó để phân phát chúng.

Quốc vương trả lời như vậy. Ngài Thiện Tuệ nói:

- Dạ được, thưa bệ hạ!

Sau đó ngài ra sức tuyên cáo mọi nơi trong thành Bất Tử:

- Ai muốn lấy tiền tài thì cứ đến nhà ta mà lấy.

Ngài phân phát tài sản bằng tấm lòng bình đẳng, không phân biệt giai cấp, để thực hành đại bố thí.

Sau khi làm đại bố thí rồi, Thiện Tuệ bèn xuất gia, hy vọng ngay hôm ấy có thể đi đến núi Như Pháp (Dhammika) thuộc dãy Tuyết Sơn (Himalaya). Thiên chủ Đế Thích (Sakka) khi thấy ngài xuất gia rồi đi đến dãy Tuyết Sơn, bèn gọi thần Tự Tại Thiên (Vissukamma) đến nói rằng:

- Hãy đi ngay, hỡi Tự Tại Thiên, Thiện Tuệ đã xuất gia làm ẩn sĩ, ngươi hãy chuẩn bị cho ông ấy một nơi ở đi!

- Dạ được, thưa Thiên chúa!

Tự Tại Thiên lãnh nhận mệnh lệnh của Đế Thích, vị ấy chọn một nơi thật đẹp để làm vườn thiền, ở đó xây dựng một ngôi nhà tranh và một vỉa hè hành thiền đẹp tuyệt vời không tì vết. Vỉa hè hành thiền đẹp không tì vết là thế nào? Tức là không có năm khuyết điểm sau: 1- Mặt đất không bằng; 2- Trên đường có cây chắn lối; 3- Trên đường mọc đầy cỏ dại; 4- Quá chật; 5- Quá rộng. Vì vậy nó là đẹp không tì vết. Ta thử hình dung về độ dài của vỉa hè hành thiền, độ dài của nó là 60 thước tay (1 thước tay khoảng 17-22 tấc Anh.), có 3 lối đi, lối đi chính trong đó rộng một nửa thước tay, hai đường bên cạnh rộng một thước tay. Mặt đất bằng phẳng và cát phủ lấp lên. Trong vườn thiền này có 8 điều kiện có thể mang lại sự thư thái cho ẩn sĩ, như những gì thần Tự Tại Thiên đã tạo dựng, tức là:

1) Không thâu cất tài vật và ngũ cốc;

2) Dễ có được vật thực thích đáng;

3) Chỉ hưởng dụng vật thực thích đáng (không cần sát sinh);

4) Không lo lắng gì về việc thuế má và tài vật bị sung công, phiền não và bất an;

5) Không chấp trước đồ dùng và đồ mặc;

6) Có cảm giác an toàn, không bị giặc cướp uy hiếp;

7) Không cần thông tin với quốc vương và quan chức;

8) Có thể di chuyển đủ chỗ một cách tự tại.

Ngoài điều này ra, có một chi tiết cần biết là khu thiền viên được thần Tự Tại Thiên tạo dựng hỗ trợ đặc biệt cho ẩn sĩ dễ dàng chứng đắc quán trí thấy biết thật tướng các pháp (Vô thường, Khổ và Vô ngã). Nó có phòng buồng, hang động, đường hầm, hoa quả, cây cối và một hồ nước trong lắng. Đó là một vùng đất yên bình, không bị chim thú quấy nhiễu. Trong nhà tranh có những đồ dùng của vị ẩn sĩ xuất gia, như là cái khăn gối đầu, áo cà-sa, cái giá ba chân, bầu nước… Tự Tại Thiên sau đó đã viết lên tường trong nhà tranh với hàng chữ đề rằng: “Ai muốn trở thành vị ẩn sĩ thì có thể sử dụng những đồ dùng này”, rồi trở về Thiên giới.

Khi đến dưới chân núi Tuyết Sơn (Himalaya), Thiện Tuệ đi lên núi rồi vào khe sâu, tìm kiếm nơi ở thích hợp để có thể sinh hoạt thoải mái. Trong núi Như Pháp có một khúc sông, ngài trông thấy khu vườn thiền đẹp đẽ do Tự Tại Thiên đã xây. Ngài đi chầm chậm đến vỉa hè hành thiền nhưng lại không thấy dấu chân, ngài nghĩ: “Chỗ trú ngụ thiền viên này chắc chắn là của người làng bên sau khi khất thực mệt nhọc trở về chốn nhà tranh ở đây ngơi nghỉ”. Ngài nghĩ vậy rồi liền đứng đợi bên ngoài.

Qua một hồi lâu, ngài vẫn không thấy có dấu tích của người sinh sống, ngài bèn nghĩ: “Ta đã đợi ở đây khá lâu rồi. Bây giờ ta nên kiểm tra xem ở nơi đây có người sinh sống hay không”. Ngài bèn mở cửa vào nhà tranh. Thăm dò một hồi, ngài thấy có chữ khắc trên tường, ngài nghĩ: “Những dụng cụ này rất thích hợp cho ta, ta có thể sử dụng chúng để trở thành vị ẩn sĩ”. Quyết định xong ngài lại suy xét chín điều xấu của trang phục người tục gia và mười hai điều tốt của áo cà-sa, thế rồi ngài trút bỏ trang phục tục gia và đổi sang áo cà-sa.

Khi đức Thiện Tuệ trút bỏ áo gấm để khoác y cà-sa, áo gấm chuyển sang màu đỏ giống như một đóa hoa A-nặc-giai (anojā). Ngài tìm thấy một tấm áo cà-sa được gấp lại và đặt sẵn trên một nhánh tre, ngài lấy tấm cà-sa hạ y quấn quanh eo lưng, và khoác tấm cà-sa thượng y sắc vàng lên mình, đem tấm tọa cụ da dê dắt bên vai phải, dùng miếng kim châm bằng ngà voi găm lên mái tóc. Ngài lấy một cái đòn gánh cong bẹt, một đầu gánh ngài treo cái lưới mắc bầu nước màu san hô, đầu gánh còn lại ngài treo một chiếc móc dài (để hái lượm trái cây), một cái giỏ, một cái giá gỗ ba chân, v.v… Sau đó ngài gánh cái đòn mà giờ đây đã chất đủ dụng cụ cần thiết của một vị ẩn sĩ lên vai. Tay phải ngài cầm một cây gậy gỗ, ngài rời khỏi ngôi nhà tranh. Khi ngài cất bước đi trên con đường vỉa hè hành thiền dài sáu mươi thước, nhìn lại bộ trang phục mới của mình, ngài thấy hân hoan cất lên bài thi kệ như sau:

1.            

Suy xét lẽ đời quyết xuất gia,

Tiền muôn bố thí chẳng nề hà.

Lên đường Tuyết Lĩnh chân đi tới,

Thiện Tuệ đương thời nay chính Ta.

2.           

Như Pháp non kia chẳng cách xa,

Thánh nhân thời cổ chọn làm nhà.

Có tòa thiền uyển như hoa ngọc,

Am cỏ tịnh tu ta với ta.

3.           

Đường đi thiền đạo không lồi lõm,

Hành giả vân du chẳng cúi khom.

Chỉ Quán song tu lòng dễ chịu,

Ngũ thông bát định chứng mai hôm.

4.           

Người đời ăn mặc gớm ghê,
Chín điều bất lợi ta chê chẳng màng.
Cà-sa khoác áo rũ hàng,
Mười hai điều lợi vinh quang tu hành.

5.      

Tám điều bất lợi chẳng hay,
Am tranh thư thái bỏ đây không màng,
Dưới cây rừng cội thẳng hàng,
Mười điều ích lợi vinh quang tu hành.

6.      

Vật ngon ngũ cốc chối từ,
Chỉ ưng quả ngọt hái từ trên cây.

7.      

Rày đây thân thể chẳng ưa nằm,

Ngồi, đứng, kinh hành thích chí chăm.

Tinh tiến bảy hôm tu tĩnh lự,

Ngũ thông chứng đắc lúc trăng rằm.

Không biết liệu sau khi rời bỏ ngôi am tranh sống dưới gốc cây, ẩn sĩ Thiện Tuệ có thể nhất tâm tu hành theo chí nguyện đã định, hay sẽ vì cực khổ mà thối thất tâm ý của mình, mời các vị nghe tiếp hồi sau sẽ rõ.

*

Nam-mô Thiện Tuệ Bồ-tát!

*

*        *

*

Nguyễn Thành Sang sáng tác

Đăng tải ngày 19-01-2021

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th