Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”


NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”[1]



Tác giả: JAMES P. MCDERMO.
Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang.

Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989,
số 1.

Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma, tham khảo thêm về niyata) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận (Kathāvatthuppakaraṇa).[2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ (Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ (Andhaka) là Tây Sơn Trụ bộ (Aparaseliya) với Đông Sơn Trụ bộ (Pubbaseliya), và Bắc Đạo bộ (Uttarāpathaka), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ (Theravāda) có tham gia vào những cuộc luận chiến về quyết định (niyāma). Mục đích của bài viết này là để thực hiện một phân tích có hệ thống về những biện luận Quyết định trong Luận Sự (Kathāvatthu) để xác định các vấn đề giáo lý tiềm tại cơ bản.
Biện luận thứ nhất được tập trung vào quyết định diễn ra tại Kvu IV.8. Cuộc luận chiến tiêu điểm vào những hàm nghĩa của một tài liệu từ Kinh Thợ gốm (Ghatīkāra Sutta; M II.45ff.). Theo điển tịch này Bồ-tát (Bodhisatta) được sinh làm một vị Bà-la-môn tên là Jotipāla (Giác-đề-ba-la), sống vào thời đại của đức Ca-diếp Phật (Kassapa Buddha). Bạn ông là thợ gốm Ghatīkāra (Cà-đề-khách-la), thỉnh mời Jotipāla đi cùng ông đến nghe Ca-diếp Phật thuyết pháp, Jotipāla bèn gia nhập Tăng-già (saṃgha) và trở thành tỳ-khưu. Bộ Đại Sự (Mahāvastu) nhắc rằng Jotipāla đã phát nguyện tự thân thành Phật trước mặt đức Ca-diếp Phật (Mhvu I.319ff, esp. 1.335), Ngài đã thụ ký cho Jotipāla sẽ thành Chính giác.
Trong Kvu IV.8 tiêu điểm trong tranh luận liên quan đến việc liệu có đúng không khi nói Jotipāla đã tiến tới nhập quyết định đạo (niyāma okkanti), ở trong giáo học (pāvacana) của đức Ca-diếp Phật. Giáo đồ của Án-đạt-la bộ và Bắc Đạo bộ thì chấp luận như thế.[3] Trái lại, giáo đồ Thượng Tọa bộ nhất nhất cho rằng điều đó có ý vị nói Bồ-tát (Vị lai Phật) nhất định thành một đệ tử của đức Ca-diếp, vậy sẽ mâu thuẫn với khái niệm Phật là đấng tự tiến tu (sayambhu) như một bậc tự giác con đường cho chính mình mà không cần thầy dạy.
Chú giải của luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) làm rõ ý nghĩa của quyết định (niyāma) trong ngữ cảnh này: “Quyết định (niyāma) và Phạm hạnh (brahmacariya) là tương đương với Tứ thánh đế. Và không có lối dẫn nhập nào cho Bồ-tát đạo trừ phi vị ấy đang tu hành viên mãn các Ba-la-mật…” (KvuA IV.8). Vậy rõ ràng từ quan điểm của Thượng Tọa bộ cho rằng nếu đã nhập quyết định đạo (niyāma), Bồ-tát không thể thực hành các khổ hạnh trước khi ngài thành đạo kiếp cuối; vì đây là trung đạo giữa những cực đoan một mặt là phóng túng hoan lạc và mặt khác là khổ hạnh triệt để.[4]
Một hàm nghĩa quan trọng về chú giải cuộc tranh luận này, mặc dù nó không được hiện rõ từ chính văn bản Luận Sự (Kathāvatthu), song giáo đồ Thượng Tọa bộ lưu tâm điều đó hòng tránh rơi vào sự thừa nhận thuyết tiền định hoặc giả khái niệm định mệnh. Vì thế khi luận sư Phật Âm viết: “Chư Phật thụ ký: ‘Người ấy sẽ thành Phật’ chỉ đơn giản bằng quán lực của chính chư Phật nhìn thấu,”[5] Ông chỉ ra rằng đức Ca-diếp Phật thụ ký cho Jotipāla được xem đơn giản là dự ngôn thành đạo, thí dụ cho quán lực của Phật nhìn thấu tiến trình của chúng sinh đi theo nghiệp (kamma) của chính họ, chứ không phải quyết định vận mệnh tương lai cho người đó.
Chú giải cho Kvu XIII.4 nhấn mạnh thêm điểm này nữa. Nó ngụ ý rằng khi một vị Phật đưa ra lời tiên dự như vậy cho một cá nhân, vị Bồ-tát này “có thể được gọi là đấng quyết định (niyata) bởi lý do công đức tăng thượng tích lũy.”[6]
Mong muốn tránh ám chỉ về một khái niệm định mệnh dường như làm cơ sở cho lập luận của giáo đồ Thượng Tọa bộ tỉ như tại Kvu VI. 1. Ở đây biện luận về quyết định (niyāma) phải chăng là vô vi (asaṅkhata).” Trong số các bộ phái khác như Án-đạt-la bộ[7] cho rằng sự đảm bảo hay cố định trên đạo lộ (niyāma) là vô vi. Họ chấp luận rằng một người được quyết định thành đạo nhằm đảm bảo kết quả của nó thì tính chất quyết định ấy không thể nào chấm dứt. Nếu không thì chủ trương về quyết định sẽ không được đảm bảo. Giáo đồ Thượng Tọa bộ phản đối rằng sử dụng thuật ngữ “vô vi” theo cách này khiến cho khái niệm quyết định (niyāma) tương đương với Niết-bàn (nibbāna) – khái niệm duy nhất được quan điểm Thượng Tọa bộ xếp loại là vô vi (asaṅkhata). Sự tương đương như vậy phải tránh né vì lẽ như Pháp Tập Luận (Dhammasaṅgaṇi) 983 nói rõ nhân tố vô vi là không xác định về đạo đức, là vô ký (avyākata: trung lập về đạo đức). Vị trí của vô vi siêu việt phạm vi của nhân quả đạo đức. Một khi trạng thái này thành tựu thì không có nghiệp lực nào tác động lên cá nhân. Nếu cứ chấp luận điều đó đúng như nhau khi tiến vào quyết định đạo thì chắc chắn sẽ dẫn đến một khái niệm về thuyết định mệnh.
Xét về sự khu biệt cơ bản cho các luận điểm tại Kvu XIII. 3 và 4, và ở mức độ thấp hơn tỉ như Kvu VI. 1, điều rõ ràng hơn nữa là quyết định (niyāma) không thể mang ý vị thuyết định mệnh siêu việt quan hệ nhân quả đạo đức. Phần biện luận tại Kvu XIII.4 tập trung vào việc một đấng quyết định (niyata) tiến tới nhập quyết định đạo (niyāmaṃ okkamati). Đông Sơn Trụ bộ và Tây Sơn Trụ bộ thì kiên quyết khẳng định (KvuA XIII.4.). Trái lại, giáo đồ Thượng Tọa bộ phân biệt giữa quyết định (niyāma) của hai loại, tùy thuộc xem nó là chính tính quyết định (sammatta niyāma) hay là tà tính quyết định (micchatta niyāma). Cái trước là thánh đạo với tối chung thành tựu A-la-hán quả. Cái sau sẽ có kết quả là phạm vào một trong ngũ nghịch trọng tội gây vô gián nghiệp (ānantarika kamma) là: 1) Giết cha; 2) Giết mẹ; 3) Giết A-la-hán; 4) Làm thân Phật chảy máu; 5) Phá hòa hợp Tăng-già Phật giáo. (A V.129) – làm dẫn tới báo ứng hiện tiền. Như chú sớ đã nói, ngoài hai loại này ra không có bất cứ hiện tượng tâm thần nào khác là quyết định bất biến (KvuA XIII.4.).
Kathāvatthu XIII.3 đề cập đến một trường hợp đặc biệt thích hợp áp dụng cho khái niệm vô gián nghiệp. Vấn đề tức là những trường hợp một người xúi giục kẻ khác gây một trong ngũ nghịch trọng tội sẽ bị mắc vô gián nghiệp. Bắc Đạo bộ luận quyết hoàn toàn nhất trí rằng một kẻ xúi người khác gây tội trọng nghịch như thế thì không thể tiến vào chính tính quyết định (sammatta niyāma). Song giáo đồ Thượng Tọa bộ thì dựa trên khái niệm nghiệp hoàn thành đã nghiệm chứng rằng trong tình huống đặc biệt một người dẫu như vậy vẫn có thể tiến nhập chính tính quyết định (sammatta niyāma).
Trong chú giải của mình, luận sư Phật Âm chú rằng thái độ của giáo đồ Thượng Tọa bộ phân biệt giữa hai cách xúi giục kẻ khác, một loại là trọng tội tức là: 1) thông qua mệnh lệnh thường xuyên, kéo dài cứ truyền đạt một cách nhất quán và nỗ lực kiên trì hành vi; hoặc 2) thông qua mệnh lệnh thỉnh thoảng hoặc kích động (KvuA XIII.3.). Cả hai bên tham gia biện luận đều đồng ý không chút nghi vấn rằng cách đầu quyết định vận mạng của một người, vì đó là hành động hữu ý. Còn cách sau thì giáo đồ Thượng Tọa bộ cho rằng biết hối cải vẫn được.
Đối với giáo đồ Bắc Đạo bộ, ngay cả cách sau cũng không thể thoát khỏi vô gián nghiệp tất phải đến, và không có khả năng để nhập chính tính quyết định đạo. Lý luận của họ cho rằng nghi hối (kukkucca) và đi kèm với nó là trạo cử (uddhacca: trạng thái bồn chồn, mất tập trung) cấu thành một trong năm triền cái (nīvaraṇa).[8] Triền cái khiến tầm nhìn của tâm chúng ta mất đi khiến chúng ta không thể làm được việc tự lợi và lợi tha. Trong trạng thái biểu hiện của chúng đều không thể nào an chỉ định (appanā samādhi: sự định tâm chuyên chú) và cận hành định (upacāra samādhi: sự gần tới định tâm). Mỗi triền cái phải được hàng phục vĩnh cửu mới có thể thành tựu quả vị A-la-hán, vì vậy, Bắc Đạo bộ tranh luận rằng quyết định (niyāma) là đối với chính đạo.
Nhằm phản đối, giáo đồ Thượng Tọa bộ bèn tưởng tượng một trường hợp giả định, có lẽ do kích động nên một người nào đó khuyên giục kẻ khác thực hiện một trong bốn tội nghịch làm dẫn đến vô gián nghiệp. Điều gì sẽ xảy ra nếu người xúi giục hối hận và rút lui trước khi tội nghịch thực sự diễn ra? Hoặc có lẽ vì nguyên do bất kể gì đó, tội nghịch không bao giờ diễn ra được và người xúi giục kia đi đến tỏ niềm hối hận về ác tâm của mình. Trong trường hợp như thế, Thượng Tọa bộ vẫn chủ trương một khi đã tỉnh ngộ thì người xúi giục có thể khắc phục sau cùng tâm trạng đang trạo hối (bồn chồn và ăn năn) của mình. Rốt sau người đó vẫn có thể nhập chính tính quyết định đạo.
Đương khi lập trường của Bắc Đạo bộ là nhằm cường điệu tính chất ác hại của ngũ nghịch trọng tội, song Thượng Tọa bộ lại thừa nhận chí thiểu về mức độ nhất định, thiện năng tiềm ẩn khiến người ta có thể làm ngược lại hành vi do hối hận. Vì nghiệp được định nghĩa là sự kích động có chủ ý (cetanā) và hành vi thực hiện theo sau đó, nếu loại trừ một hoặc cả hai luôn thì chắc chắn sẽ làm vơi bớt mức nghiêm trọng của hành động và giảm thiểu nghiệp lực của nó.[9]
Như chúng tôi đã chú ở chỗ khác, vấn đề cụ thể tại Kvu XIII.3 chỉ là một phương diện của cuộc luận chiến lớn hơn, đó là tiêu điểm của các cuộc biện luận song đối được ghi tại Kvu XXI.7 và 8.[10] Kathāvatthu XIII.8 đề ra cuộc luận thảo của hai giáo phái Án-đạt-la bộ và Bắc Đạo bộ (KvuA XXI.8.) rằng tất cả nghiệp đều có quả báo quyết định (niyata).
Một số hành vi nào đó tự nhiên đem lại quả dị thục trong hiện đời, trong khi những quả dị thục khác xảy ra ở đời sau, và còn có loại nghiệp quả dị thục thứ ba xảy ra trong các kiếp tiếp theo. Do ba loại không thể nào loại này chuyển hoán thành loại khác, nên chúng phải được quyết định (niyata) ở quả báo của chúng. Đối với những người ủng hộ lập trường đó, thế này ngụ ý rằng bất kỳ hành vi nào đều tất yếu sẽ sản sinh một số quả báo quyết định nào đó, và cứ hễ khi nào hành vi đó được thực hiện thì nghiệp lực tương đương sẽ phát sinh. Đối với giáo đồ Thượng Tọa bộ, quan điểm này dường như ám chỉ rằng tất cả hành động đều dẫn đến hoặc là chính tính quyết định (sammatta niyāma) hoặc là tà tính quyết định (micchatta niyāma). Vì như chúng ta đã thấy ở trên, chỉ có phạm một trong các tội nghịch mới khiến gây vô gián nghiệp (ānantarika kamma) làm dẫn tới tà tính quyết định, chứ toàn bộ các loại hình ác nghiệp còn lại không hề phải được thiết lập là nghiệp báo quyết định. Tương tự vậy, không phải mọi thiện nghiệp đều quyết định thành tựu Niết-bàn (nibbāna) hoặc giả nhập quyết định đạo (niyāma okkanti). Trên thực tế, kết luận của Thượng Tọa bộ cho rằng đại đa số các hành nghiệp của nhân loại không thể được nói đến như có quả báo tiền định, quả báo của họ được nhuận sắc bởi tính cách tổng thể và khí chất đạo đức cũng như hoàn cảnh tương quan với người tạo nghiệp.
Trong cuộc biện luận song đối về nghiệp quyết định, vấn đề là liệu tất cả mọi hiện tượng (chư pháp) có được tự nhiên quyết định hay không. Tiếng Pāḷi đọc là: sabbe dhammā niyatā’ti? (Kvu XXI.7.) Một lần nữa giáo đồ Án-đạt-la bộ và đôi khi Bắc Đạo bộ quả quyết khẳng định (KvuA XXI.7.). Quan điểm của họ hình như chỉ đơn giản là: cho dù có bao nhiêu là hiện tượng (pháp: dhamma) đi nữa có thể thay đổi thì chúng cũng không bao giờ từ bỏ tính chất cơ bản của chúng. Tỉ dụ thuyết minh: sắc là vật chất thuộc tự nhiên. Nó không thể là khác được. Nó không có gì nữa ngoài vật chất. Sự thuộc tự nhiên ấy hầu như chẳng cần bàn, nó không thể là hiện tượng tâm thần được. Nó không thể có tính chất của thụthức hoặc tương tự. Vậy nó được cho là quyết định (niyata). Mọi pháp khác đều được tưởng như nhau là quyết định, có tính chất bất biến.
Giáo đồ Thượng Tọa bộ phản bác quan điểm quá sức giản đơn này. Từ cách nhìn của mình tuyên thuyết rằng tất cả các pháp được quyết định (niyata) tương đương với tuyên thuyết về tiền định luận đạo đức; nghĩa là đối với tuyên thuyết mọi hiện tượng đều được quyết định bằng chính tính quyết định hoặc tà tính quyết định. Nói cách khác, điều này sẽ tương đồng với nói rằng tất cả pháp đều thuộc về ác báo tà tính quyết định hoặc giả thiện báo chính tính quyết định. Điều đó trái ngược với kinh (sutta) dạy có tam loại tụ (rāsi) được liệt gồm: 1) Tà tính quyết định loại tụ (micchatta niyāto rāsi); 2) Chính tính quyết định loại tụ (sammatta niyāto rāsi); 3) Phi quyết định loại tụ (aniyato rāsi). Trong đó thì loại cuối cùng và chiếm lượng lớn nhất chính là không cố định bất biến (phi quyết định).[11]
Theo chú sớ (KvuA V.4 & XIX.7.), giáo đồ Bắc Đạo bộ là người đề xướng hai luận điểm liên quan được biện luận lần lượt tại Kvu V.4 và XIX.7. Cuộc luận chiến trước tập trung vào Bắc Đạo bộ tuyên thuyết “với một kẻ phi quyết định [trên đạo lộ] song có trí (ñāṇa) để dẫn đáo quyết định (niyāma gamanāya).” Bên đáp biện xem đây như là lời tuyên thuyết rằng một phàm phu vẫn chưa tiến nhập đạo lộ thì có khả năng phát triển trí tuệ để quyết định thành tựu cứu cánh, trong khi thực tế đạo lộ này chỉ giới hạn cho những ai đã thành đấng quyết định. Trái lại, luận điểm cho rằng ngay cả khi một người chưa nhập quyết định đạo thì tính khả năng họ phát triển trí tuệ để thành tựu điều đó vẫn tồn tại được. S.Z. Aung và bà Rhys Davids đã mô tả cuộc biện luận này như “một cơn sốt cầu tri của phép biện chứng cổ đại. Ở cái kết một phần biện luận bộ phái được đề xuất phản đối bên đáp biện tương đương, buộc bên đó phải bác bỏ chủ trương của họ hoặc rút lại mệnh đề.”[12] Như chú giải của luận sư Phật Âm chỉ ra (KvuA V.4.), cuộc tranh luận này bắt nguồn từ dụng ngữ “quyết định” (niyāma) như một từ đồng nghĩa với đạo lộ chứng quả A-la-hán. Vì vậy, luận chứng của Thượng Tọa bộ rốt cuộc cũng chỉ là để nói một cách rất giản đơn mà thôi, tức người nào đã tiến nhập đạo lộ thì được quyết định trên đạo lộ ấy.
Kathāvatthu XIX.7 đề cập đến cứu cánh quyết định (accanta niyāmato) trong trường hợp của một phàm phu (puthujjana). Như Từ điển Pāḷi–Anh (Pāli–English Dictionary) của Hiệp hội Thánh điển Pāḷi (The Pāli Text Society) chú thích, từ accanta (cứu cánh) có thể phiên dịch nhiều cách khác nhau như 1) “bất gián đoạn, liên tục, vĩnh cửu,” hoặc 2) “cuối cùng, tuyệt đối, đầy đủ.”[13] Bắc Đạo bộ thì cho rằng trong trường hợp là phần tử của ‘oi polloi (phàm phu) đó là cứu cánh quyết định (accanta niyāmato). Nếu điều này được coi như tuyên thuyết rằng sự tiến nhập trên đạo lộ của cá nhân như vậy là được quyết định thì điều này sẽ bị cự tuyệt; vì các phần tử của chúng phàm phu cũng có khả năng phạm trọng tội. Mặt khác, nếu luận đề được đọc như lời tuyên thuyết rằng quyết định của vô gián nghiệp đi theo sau việc vi phạm là vĩnh cửu, thì nó cũng phải bị cự tuyệt; vì quyết định nghiệp báo này chỉ tồn tại như loáng trong khoảng sát-na (KvuA XIX.7.). Rốt cuộc, nếu mệnh đề được đề xuất rằng phần tử của ‘oi polloi (phàm phu) có thể cảm được cứu cánh quyết định thì nó vẫn phải bị cự tuyệt, vì chỉ có người tiến nhập đạo lộ mới có thể khéo trừ nghi hoặc, đây là điều mà kẻ phàm phu (puthujjana) về định nghĩa lại không làm được.
Để bảo vệ lập trường của mình, Bắc Đạo bộ dẫn chứng A IV. 11: “Hãy xem nghiệp mà người tạo là hắc pháp và ác pháp, vì như vậy, này các tỳ-khưu, người đó liền bị thoái thất [—nghĩa là bị thụt lùi tất cả ngay lập tức —] và đọa lạc.”[14] Thượng Tọa bộ thì phủ nhận đoạn kinh văn này có liên quan. Chú sớ của luận sư Phật Âm đã minh giải sự phủ nhận ấy mà cho thấy rằng Bắc Đạo bộ đã quá cả tin ỷ lại vào từ ngữ (vacana) của kinh văn mà để vuột mất tinh nghĩa (attho) của nó.[15]
“Quyết định luận” (niyāma-kathā) trong tác phẩm Luận Sự (Kathāvatthu) được xem là đề cập đến nội dung thuyết minh cho nhập quyết định đạo. Họ cũng tiến tới phân biệt giữa chính tính quyết định (sammatta niyāma) với tà tính quyết định (micchatta niyāma) của quả báo hiện tiền gây bởi vô gián nghiệp. Nhưng tại sao hứng thú của tự viện về những vấn đề này tựa hồ như bản thân chúng tương đối thứ yếu (nghĩa là không được chú trọng hàng đầu – ND)? Đáp án dường như nằm ở sự thừa nhận rằng khái niệm quyết định hoặc giả nhập quyết định đạo dù là dưới hình thức nào ngoài chính Niết-bàn (nibbāna) đều có thể quá dễ đưa mọi thứ dẫn tới dị đoan của thuyết tiền định hay Quyết định luận (niyativāda), hoặc giả niềm tin rằng: “tất cả chúng sinh, tất cả mọi loài có hơi thở, tất cả loài được xuất sinh, tất cả mọi sinh mạng đều không có quyền năng, sức mạnh, năng lượng; mà chúng được tiến hóa theo định mệnh (niyati), tập hợp (saṅgati) và tự nhiên (bhāva).”[16] Trong Kinh Sa-môn quả (Sāmmaña-phala Sutta) (D 1.53.) quan điểm này được quy cho luận sư ngoại đạo Makkhali Gosāla (Mạt-già-lê Cù-xá-la). Vậy ít nhất phần đối đáp Quyết định luận dường như được hình thành một cách ám thị để tránh rơi vào cái bẫy thuyết tiền định của Tà mạng ngoại đạo (Ājīvika).

Sài Gòn, Gò Vấp: 29-09-2019, dịch xong.
Email: thanhsang.nsb@gmail.com                                


[1] Nghiên cứu cho bài viết này được bắt đầu với sự viện trợ của Quỹ tiền thưởng Nghiên cứu Mùa hè Giảng viên (Faculty Summer Research Grant) của trường Đại học Canisius, và hoàn thành trong thời gian nghỉ phép được Nhà trường Canisius cho phép với sự hỗ trợ thêm của N.E.H. Grant cho Giảng viên đại học. Bản sơ khởi của bài viết này đã được đệ trình tại Hội nghị Phạn ngữ (Sanskrit) Thế giới lần thứ VI, Philadelphia, Pennsylvania, từ ngày 13–20 tháng 10 năm 1984.
[2] Kvu IV.8, V.4, VI. 1, XIII.3-4, XIX.7, và XXI.7-8. Khi chuẩn bị luận văn này, các bản sau đây của điển tịch Pāḷi về Luận Sự (Kathāvatthu) và các chú sớ của nó được sử dụng gồm: tỳ-khưu J. Kashyap, ed. The Kathāvatthu, Nālandā Devanāgarī Pāḷi Series (Pāḷi Publication Board, Bīhar Government, 1961); Mahesh Tiwary, ed. The Pañcappakaraṇa-Aṭṭhakathā, tập II; Kathāvatthu-Aṭṭhakathā. (Nālandā, Patna: Nava Nālandā Mahāvihāra, 1971); bản kinh điển tiếng Miến của Căn bản chú sớ (Mūlaṭīkā) và Phụ bổ chú sớ (Anuṭīkā) bộ Luận Sự (Kathāvatthu) từ Pañcappakaraṇa-mūlaṭīkāPañcappakaraṇānuṭīkā (1960). Căn bản chú sớPhụ bổ chú sớ được tham khảo xuyên suốt. Họ thêm một chút ý nghĩa cho lý giải triết học của điển tịch. 
[3] Xem KvuA IV.7 và IV.8.
[4] Câu chuyện về Jotipāla hình như đặc biệt thành vấn đề cho giáo đồ nhà Phật, vì khi nó cũng thành chủ đề quan tâm đối với vua Milinda trong Kinh Milinda vấn đạo (Milindapañha) (Miln 221–233). Tuy nhiên, vấn đề ở đây lại khác, điều được quan tâm là thành tựu của một người như Jotipāla có thể “lợi dụng” đức Ca-diếp Phật như thế nào. Biện pháp giải quyết của tỳ-khưu Na-tiên (Nāgasena) cho vấn đề lưỡng nan ấy không hoàn toàn phù hợp với lý giải thông thường về cách vận hành của nghiệp.      
[5] KvuA IV.8 bản dịch của Shwe Zan Aung 8c Mrs. Rhys Davids, Points of Controversy, or Subjects of Discourse (London: Luzac cho P.T.S., 1960 tái bản của 1915 ed.), 168, và được Bimala Churn Law thông qua, The Debates Commentary, Pāḷi Text Translation Series, No. 28 (London: Luzac cho P.T.S., 1969 tái bản của 1940 ed.), 97.
[6] Như bản dịch của Aung và Rhys Davids, Points of Controversy, 275, và được Law thông qua, Debates Commentary, 175. Aung và Rhys Davids đọc puññ’u-ssadattā cho puññassa datvā. Xem 275, fn. 3.
[7] Xem KvuA VI. 1.
[8] Về các triền cái (nīvaraṇa) xem D 1.73, A 1.3, S 11.23, và M 1.60, cho thí dụ. Cũng xem Ñyānaponika Thera, The Five Mental Hindrances, Wheel Publication No. 26 (Kandy: Buddhist Publication Society, 1961).
[9] Xem James P. McDermott, “Karma and Rebirth in Early Buddhism,” (Nghiệp và Tái sinh trong Phật giáo Sơ kỳ) trong Wendy D. O'Flaherty, ed. Karma and Rebirth in Classical Indian Traditions (Nghiệp và Tái sinh trong các Truyền thống Ấn-độ Cổ điển) (Berkeley: Univ. of California Press, 1980; Indian ed. Delhi: Motilal Banarsidass, 1983), 187-189. Về khái niệm nghiệp hoàn thành xem thêm các Kinh Nikāya tiếng Pāḷi và A-tì-đạt-ma Câu-xá Luận (Abhidharmakoṣa).
[10] Xem James P. McDermott, “The Kathāvatthu Kamma Debates,” (Những biện luận về Nghiệp trong Luận Sự), Journal of the American Oriental Society, Vol. 95.3 (1975), 429-430.
[11] Xem D III.217. Tham khảo Nett 96.
[12] Aung và Rhys Davids, Points of Controversy, 178, fn. 1.
[13] T.W. Rhys Davids và William Stede, P.E.D. (London- Luzac cho P.T.S., 1966 tái bản của 1921-1925 ed.), s.v.
[14] Như bản dịch của E.M. Hare, The Book of the Gradual Sayings, Vol. IV, Loạt sách phiên dịch của P.T.S., No. 26 (London: P.T.S.; distr. Routledge & Kegan Paul, 1978 tái bản của 1935 ed.), 7. Dấu ngoặc đơn được tác giả thêm vào sau khi đọc KvuA XIX.7.
[15] Xem KvuA XIX.7.
[16] D 1.53 như bản dịch của David J. Kalupahana, Causality: The Central Philosophy of Buddhism (Nhân quả: Triết lý Trung tâm của Phật giáo) (Honolulu: University Press of Hawaii, 1975), 33. Về phiên dịch nhận thức của tập hợp (saṅgati) như “chủng loại” xem ibid., 33-36.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th