Tác giả: LÂM SÙNG AN.
(Tạp chí Pháp Quang, kỳ 291, pp. 2–3, 12.2013)
Dịch giả:
Nguyễn Thành Sang.
I. LỜI NÓI ĐẦU
Luận tạng Nam truyền có bảy bộ luận trọng yếu: 1. Pháp tập luận (Dhammasaṅganī – ND); 2. Phân biệt luận (Vibhaṅga – ND); 3. Giới luận (Dhātukathā – ND); 4. Nhân thi thiết luận (Puggalapaññatti – ND); 5. Luận sự (Kathāvatthu
– ND);
6. Song luận (Yamaka – ND); 7. Phát thú luận (Paṭṭhāna – ND). Trong
đó thì Kathāvatthu (Luận sự) được biên soạn bởi Mục-kiền-liên
Tử Đế-tu, chia làm 23 phẩm, 217 luận, là một trước tác biện luận buổi đầu. Gần
đây bộ Kathāvatthu do chùa Nguyên
Hanh xuất bản được tiên sinh Quách Triết Chương dịch ra. Thuật ngữ vấn đáp nhân
minh của Ấn-độ có dịch từ bất đồng với Hán dịch, ví như “nhiên” = “hứa” = “đồng
ý.” Thuật ngữ nhân minh hậu kỳ có thể thống nhất dùng bạch thoại như “đồng ý,”
“tại sao?” “không trọn khắp” (chẳng biến) v.v… Vấn đáp trong Kathāvatthu thực ra hết sức phù hợp với
cách thức vấn đáp của nhân minh hậu kỳ.
Bài viết nhắm vào 23 đoạn luận biện của Vô tri luận trong Luận sự, dùng mẫu Nhân minh luận để phân
tích thuyết minh. Tự phương trong bài là Thượng Tọa bộ (Theravāda – ND), Tha phương là Đông Sơn Trụ bộ
(Pubbaseliya – ND). Tiêu
điểm của tranh luận ở việc Tha phương cho rằng Vô tri có hai loại: loại thứ nhất
là sự vô tri “giết sinh vật, lấy của không cho, nói lời giả dối, nói lời chia rẽ,
nói lời thô ác, nói lời uế tạp, bẻ ổ khóa, cướp giật, làm trộm cắp, ẩn nấp ven
đường, nhắm vào vợ người ta, phá xóm làng, phá phố chợ,” sự vô tri đối với “sư,
pháp, Tăng-già, học, tiền tế, hậu tế, tiền hậu tế, tương y tính duyên khởi
pháp,” cũng như sự vô tri đối với “Dự lưu quả, Nhất lai, Bất hoàn quả, A-la-hán
quả.” Loại thứ hai là những vô tri như “không biết tên họ của đàn bà, đàn ông,
không biết đi đúng đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ, cây gỗ, rừng”…
Tha phương cho rằng loại thứ nhất và loại thứ hai đều quy vào “vô tri,” nhưng Tự
phương chỉ thừa nhận loại thứ nhất mới là vô tri, còn loại thứ hai không nạp vào
trong phạm vi của vô tri, tranh luận ở đây.
II. PHÂN TÍCH VẤN ĐÁP VỀ VÔ TRI LUẬN
[Đoạn thứ
1] Hai loại vô tri
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Tự phương đề xuất vấn đề: “A-la-hán có vô tri phải
không?” Tha phương trả lời phải, cũng chính là: “Đồng ý.” Lúc này Tha phương đã
lập ra chủ trương rõ ràng (tông): “A-la-hán có vô tri,” mà đây là chỉ sự vô tri
loại thứ hai của A-la-hán. Hễ bắt đầu muốn xác lập chủ trương của từng bên, nếu
giống nhau thì không luận biện làm chi.
3. Tự phương: A-la-hán có vô minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ,
vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Tự phương lại đề xuất vấn đề: “A-la-hán có vô
minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ, vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết,
vô minh cái phải không?” Lúc này Tự phương đề xuất A-la-hán có sự vô tri loại
thứ nhất không? Cũng tức là có sự vô tri theo cách gọi thông thường không?
Trong vấn đáp nhân minh hậu kỳ, khi bên trả lời không cho đó là đúng sẽ trả lời:
“Vì cớ sao?” cũng tức là: “Tại sao?”
5. Tự phương: A-la-hán không có vô minh… cho đến… vô minh cái
phải không?
6. Tha phương: Phải.
7. Tự phương: Nếu “A-la-hán không có vô minh… cho đến… vô minh
cái,” bởi vậy ngươi không nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Tự phương hỏi: “A-la-hán không có vô minh, vô minh
bộc lưu, vô minh quỹ, vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái
chăng?” Tha phương trả lời phải, cũng tức là: “Đồng ý.” Đây cũng là chủ trương
của Tha phương.
Tiếp theo Tự phương lập ra tông và nhân của mình: ngươi không
nên nói: “A-la-hán có vô tri,” cũng chính tông của Tự phương là “A-la-hán không
có vô tri,” lý do nó thành lập là “A-la-hán không có vô minh… cho đến… vô minh
cái,” đây là dùng chủ trương được Tha phương đồng ý làm “nhân,” khi luận biện
nhân minh sẽ nói “nhân đã ưng chịu.” Tự phương chủ trương: “A-la-hán vì không
có vô minh… cho đến… vô minh cái nên không có vô tri.” Có thể biết Tự phương giới
hạn phạm vi của vô tri vào bên trong “vô minh… cho đến… vô minh cái.”
(Tham thảo) Vấn đáp đoạn thứ 1 ở trên là một mô thức luận biện
có tính đại biểu, nội hàm ba nhóm mô thức vấn đáp: mô thức 1-2 cũng như mô thức
3-4 là xác định “tông” hoặc chủ trương của Tha phương, mô thức 6-7 là Tự phương
lập ra tông và nhân của mình. Luận biện này dừng lại đến đây, cứ như Tự phương
đã chiếm thượng phong. Kỳ thực vẫn chưa hết, Tha phương sẽ trả lời: “Không trọn
khắp,” vì Tha phương cho rằng A-la-hán tuy không có “vô minh… cho đến… vô minh
cái,” nhưng A-la-hán vẫn có những vô tri như “không biết tên họ của đàn bà, đàn
ông, không biết đi đúng đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ, cây gỗ, rừng.”
Có thể biết phạm vi định nghĩa của Tự phương và Tha phương đối với “vô tri” có
chỗ khác nhau. Tranh luận ở đây.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán có vô minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ,
vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải không?
4. Bên nó: Tại sao? (biểu thị không đồng ý.)
5. Bên mình: A-la-hán không có vô minh… vô minh cái phải
không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. Bên mình: A-la-hán vì không có vô minh… cho đến… vô minh
cái nên phải không có vô tri. Nhân đã ưng chịu.
8. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
2] Hai loại vô tri
1. Tự phương: Phàm phu có vô minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ,
vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “phàm phu
có vô tri,” thứ hai là “phàm phu có vô minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ, vô
minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái.” Tha phương đồng ý hai
chủ trương này, cho nên trả lời phải, cũng chính là: “Đồng ý.” Lúc này đã bày tỏ
rõ ràng chủ trương của Tha phương.
3. Tự phương: A-la-hán có vô tri, họ kia có vô minh, vô minh bộc
lưu, vô minh quỹ, vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải
không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
có vô tri,” thứ hai là “A-la-hán có vô tri, họ kia có vô minh, vô minh bộc lưu,
vô minh quỹ, vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái.” Tha
phương đồng ý chủ trương thứ nhất, không đồng ý chủ trương thứ hai. Ở vấn đáp
nhân minh hậu kỳ, khi bên trả lời không cho đó là phải, sẽ trả lời: “Vì cớ
sao?” Cũng chính là: “Tại sao?”
(Tham thảo) Vấn đáp đoạn thứ 2 ở trên cũng là một mô thức luận
biện có tính đại biểu của bản luận, nội hàm hai nhóm mô thức vấn đáp: mô thức
1-2 cũng như 3-4. Trong mỗi một mô thức đều có hai chủ trương, có thể xác định
“tông” của Tha phương. Nhân minh hậu kỳ đã lần lượt kiến lập mỗi một chủ trương
để tránh lẫn lộn.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: Phàm phu có vô tri, họ kia có vô minh, vô minh bộc
lưu, vô minh quỹ, vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải
không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Phàm phu có vô minh, vô minh bộc lưu, vô minh quỹ,
vô minh tùy miên, vô minh triền, vô minh kết, vô minh cái phải không? (nội hàm
hai chủ trương.)
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
3] Hai loại vô tri
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri, họ kia không có vô minh… cho
đến… vô minh cái phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Phàm phu có vô tri, họ kia không có vô minh… cho
đến… vô minh cái phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
4] Hai loại vô tri
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Tha phương đồng ý “A-la-hán có vô tri.” Ở đây Tha
phương là đồng ý A-la-hán còn có sự vô tri loại thứ hai như không biết tên họ của
đàn bà, đàn ông, không biết đúng đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ,
cây gỗ, rừng…
3. Tự phương: A-la-hán bởi vì vô tri mà giết sinh vật, lấy của
không cho, nói lời giả dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, nói lời uế tạp, bẻ
ổ khóa, cướp giật, làm trộm cắp, ẩn nấp ven đường, nhắm vào vợ người ta, phá
xóm làng, phá phố chợ phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) “giết sinh vật, lấy của không cho, nói lời giả dối,
nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, nói lời uế tạp, bẻ ổ khóa, cướp giật, làm trộm
cắp, ẩn nấp ven đường, nhắm vào vợ người ta, phá xóm làng, phá phố chợ” là đến
từ sự vô tri loại thứ nhất, mà A-la-hán đã không có sự vô tri loại thứ nhất, đó
là điều cả hai bên cùng thừa nhận. Cho nên từ ngữ “bởi vì vô tri” ở đây Tha
phương tất nhiên lý giải là sự vô tri loại thứ hai, sửa thành câu hỏi:
“A-la-hán có sự vô tri (loại thứ hai) mà giết sinh vật, lấy của không cho… cho
đến… phá phố chợ phải không?” Tha phương sẽ trực tiếp trả lời: “Tại sao?” Biểu
thị không đồng ý.
5. Tự phương: Phàm phu có vô tri, phàm phu bởi vì vô tri mà giết
sinh vật, lấy của không cho… phá phố chợ phải không?
6. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “phàm phu
có vô tri,” thứ hai là “phàm phu bởi vì vô tri mà giết sinh vật, lấy của không
cho… phá phố chợ,” đó là bởi vì phàm phu có vô tri loại thứ nhất. Tha phương đồng
ý chủ trương thứ nhất và thứ hai, cho nên trả lời “Đồng ý.”
7. Tự phương: A-la-hán có vô tri, A-la-hán bởi vì vô tri mà giết
sinh vật, lấy của không cho… phá phố chợ phải không?
8. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
có vô tri,” thứ hai là “A-la-hán bởi vì vô tri mà giết sinh vật, lấy của không
cho… phá phố chợ.” Tha phương đồng ý chủ trương thứ nhất, chủ trương thứ hai
(phân tích như trước), sửa thành câu hỏi: “A-la-hán có sự vô tri (loại thứ hai)
mà giết sinh vật… cho đến… phá phố chợ phải không?” Tha phương sẽ trực tiếp trả
lời: “Tại sao?” Biểu thị không đồng ý.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán có sự vô tri (loại thứ hai) mà giết sinh
vật, lấy của không cho, nói lời giả dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, nói lời
uế tạp, bẻ ổ khóa, cướp giật, làm trộm cắp, ẩn nấp ven đường, nhắm vào vợ người
ta, phá xóm làng, phá phố chợ phải không?
4. Bên nó: Tại sao? (biểu thị không đồng ý.)
5. Bên mình: Phàm phu có vô tri, phàm phu bởi vì vô tri mà giết
sinh vật, lấy của không cho… phá phố chợ phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. Bên mình: A-la-hán có vô tri, A-la-hán có sự vô tri (loại
thứ hai) mà giết sinh vật… cho đến… phá phố chợ phải không?
8. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao? (biểu thị không đồng
ý.)
[Đoạn thứ
5] Hai loại vô tri
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri, A-la-hán bởi vì vô tri mà
không giết sinh vật, lấy của không cho… cho đến… không phá phố chợ phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
có vô tri,” thứ hai là “A-la-hán bởi vì vô tri mà không giết sinh vật, lấy của
không cho… không phá phố chợ.” Tha phương đồng ý chủ trương thứ nhất. Chủ
trương thứ hai sửa thành câu hỏi: “A-la-hán tuy có sự vô tri (loại thứ hai)
nhưng không giết sinh vật, lấy của không cho… không phá phố chợ phải không?”
Tha phương sẽ trả lời trực tiếp là “Đồng ý.”
3. Tự phương: Phàm phu có vô tri, phàm phu bởi vì vô tri mà
không giết sinh vật, lấy của không cho… không phá phố chợ phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “phàm phu
có vô tri,” thứ hai là “phàm phu bởi vì vô tri mà không giết sinh vật, lấy của
không cho… không phá phố chợ.” Tha phương đồng ý chủ trương thứ nhất. Phàm phu
có sự vô tri loại thứ nhất mà giết sinh vật, lấy của không cho… cho đến… phá phố
chợ, cho nên Tha phương sẽ không đồng ý chủ trương thứ hai, sẽ trả lời “Tại
sao?”
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri, A-la-hán tuy có sự vô tri (loại
thứ hai) mà không giết sinh vật, lấy của không cho… cho đến… không phá phố chợ phải
không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Phàm phu có vô tri, phàm phu bởi vì vô tri nên
không giết sinh vật, lấy của không cho… cho đến… không phá phố chợ phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
6] Hai loại vô tri
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 1-2 trước.
3. A-la-hán có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô tri về
Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế, vô tri về tiền hậu
tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 3-4 trước.
5. Tự phương: A-la-hán không có sự vô tri về sư, vô tri về
pháp, vô tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế,
vô tri về tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp phải không?
6. Tha phương: Phải.
7. Tự phương: Nếu “A-la-hán không có sự vô tri về sư, vô tri về
pháp, vô tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế,
vô tri về tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp,” vì vậy ngươi
không nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 5-7 trước. Tự phương
chủ trương “A-la-hán vì không có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô tri về
Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế, vô tri về tiền hậu
tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp nên không có vô tri.” Có thể biết Tự
phương đã giới hạn phạm vi của “vô tri” vào trong sự “vô tri loại thứ nhất.” Luận
biện này dừng lại ở đây, kỳ thực vẫn chưa hết, Tha phương sẽ trả lời: “Không trọn
khắp,” vì Tha phương cho rằng A-la-hán tuy không có “vô tri về sư, vô tri về
pháp, vô tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế,
vô tri về tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp,” nhưng A-la-hán
vẫn có những vô tri như “không biết tên họ của đàn bà, đàn ông, không biết đúng
đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ, cây gỗ, rừng.”
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô
tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế, vô tri về
tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp phải không?
4. Bên nó: Tại sao?
5. Bên mình: A-la-hán không có sự vô tri về sư, vô tri về
pháp, vô tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế,
vô tri về tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. Bên mình: A-la-hán vì không có sự vô tri về sư, vô tri về
pháp, vô tri về Tăng-già, vô tri về học, vô tri về tiền tế, vô tri về hậu tế,
vô tri về tiền hậu tế, vô tri về tương y tính duyên khởi pháp nên phải không có
vô tri. Nhân đã ưng chịu.
8. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
7] Hai loại vô tri
1. Tự phương: Phàm phu có vô tri, họ kia có sự vô tri về sư,
vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi
pháp phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “phàm phu
có vô tri,” thứ hai là “phàm phu có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô tri về
Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi pháp.” Tha phương đồng ý
hai chủ trương này, trực tiếp trả lời “Đồng ý.”
3. Tự phương: A-la-hán có vô tri, họ kia có sự vô tri về sư,
vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi
pháp phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
có vô tri,” thứ hai là “A-la-hán có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô tri về
Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi pháp.” Tha phương đồng ý
chủ trương thứ nhất; không đồng ý chủ trương thứ hai, sẽ trả lời: (chủ trương
thứ hai) Tại sao?
5. Tự phương: A-la-hán có vô tri, họ kia không có sự vô tri về
sư, vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên
khởi pháp phải không?... cho đến…
6. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
có vô tri,” thứ hai là “A-la-hán không có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô
tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi pháp.” Tha phương đồng
ý hai chủ trương này, sẽ trả lời: “Đồng ý.”
7. Tự phương: Phàm phu có vô tri, họ kia không có sự vô tri về
sư, vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên
khởi pháp phải không?
8. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “phàm phu
có vô tri,” thứ hai là “phàm phu có sự vô tri về sư, vô tri về pháp, vô tri về
Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi pháp.” Tha phương đồng ý
chủ trương thứ nhất, không đồng ý chủ trương thứ hai.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: Phàm phu có vô tri, họ kia có sự vô tri về sư, vô
tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi
pháp phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán có vô tri, họ kia có sự vô tri về sư, vô
tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên khởi
pháp phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
5. Bên mình: A-la-hán có vô tri, họ kia không có sự vô tri về
sư, vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên
khởi pháp phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. Bên mình: Phàm phu có vô tri, họ kia không có sự vô tri về
sư, vô tri về pháp, vô tri về Tăng-già… cho đến… vô tri về tương y tính duyên
khởi pháp phải không?
8. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
8] Xả tham… 1
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 1-2 trước.
2. Tha phương: Phải.
3. Tự phương: A-la-hán xả tham, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân
cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai phải
không?
4. Tha phương: Phải.
5. Tự phương: Nếu “A-la-hán xả tham, dứt hẳn gốc rễ như chặt
thân cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai,” thật
ngươi không nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 5-7 trước.
6. Tự phương: A-la-hán xả sân… cho đến… xả si… cho đến… xả vô
quý, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng
sinh không phải vì vị lai phải không?
7. Tha phương: Phải.
8. Tự phương: Nếu “A-la-hán xả vô quý, dứt hẳn gốc rễ như chặt
thân cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai,” thật
ngươi không nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Mô thức giống đoạn thứ nhất 5-7 trước. Luận biện
này kỳ thực còn chưa hết, Tha phương sẽ trả lời: “Không trọn khắp.”
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán xả tham, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân
cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai phải
không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì A-la-hán xả tham, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân
cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai nên
A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên mình: A-la-hán xả sân… cho đến… xả si… cho đến… xả vô
quý, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân cây Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng
sinh không phải vì vị lai phải không?
7. Bên nó: Đồng ý.
8. Bên mình: Vì xả vô quý, dứt hẳn gốc rễ như chặt thân cây
Tāra, thuộc về không có, là pháp chẳng sinh không phải vì vị lai nên A-la-hán
phải không có vô tri.
9. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
9] Xả tham… 2
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán không phải xả tham, tu đạo… cho đến… tu
Bồ-đề phần phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì A-la-hán xả tham… cho đến… tu hành Bồ-đề phần
nên A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
7. Bên nó: Đồng ý.
8. Bên mình: A-la-hán không phải xả tham… cho đến… xả vô quý,
tu đạo… cho đến… không phải tu Bồ-đề phần phải không?
9. Bên nó: Đồng ý.
10. Bên mình: Vì A-la-hán xả vô quý, tu Bồ-đề phần nên
A-la-hán phải không có vô tri.
11. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
10] Xả tham… 3
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán không phải ly tham, ly sân, ly si… cho đến…
chứng điều đã chứng phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì A-la-hán ly tham, ly sân, ly si… cho đến… chứng
điều đã chứng nên A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
11] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 1
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp có vô tri,
A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp không vô tri.
(Phân tích) Trở xuống có 6 đoạn luận biện, Tha phương đem chia
A-la-hán thành hai loại, loại thứ nhất là A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp,
loại này có vô tri. Loại thứ hai là A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp, loại
này không vô tri. Đó là tông của Tha phương. Phật-đà có đủ Nhất thiết trí, một
trong những danh hiệu của Ngài là A-la-hán, có thể quy loại là A-la-hán thiện xảo
đối với tha pháp. Có thể vấn đáp như sau.
1. Tự phương: Phàm là A-la-hán đều có vô tri phải không?
2. Tha phương: Không trọn khắp (không nhất định).
3. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp có vô tri phải
không?
4. Tha phương: Phải.
5. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp có vô tri phải
không?
6. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
7. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp không vô tri
phải không?
8. Tha phương: Phải.
9. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp không vô tri
phải không?
10. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Chuỗi vấn đáp này chỉ là xác lập tông của Tha
phương mà thôi.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
Bởi vì Tha phương đem chia A-la-hán thành hai loại, có loại có
vô tri, có loại không vô tri. Có thể sửa làm đặt câu hỏi như sau.
Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp có vô tri,
A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp không vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý. (đây là tông của Tha phương.)
3. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp có vô tri phải
không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp có vô tri phải
không?
6. Bên nó: Tại sao?
7. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp không vô tri
phải không?
8. Bên nó: Đồng ý.
9. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp không vô tri
phải không?
10. Bên nó: Tại sao?
[Đoạn thứ
12] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 2
1. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả tham, họ
kia có vô tri phải không?
2. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Trong này có hai chủ trương, thứ nhất là “A-la-hán
thiện xảo đối với tha pháp xả tham,” thứ hai là “A-la-hán thiện xảo đối với tha
pháp có vô tri.” Tha phương đồng ý chủ trương thứ nhất, không đồng ý chủ trương
thứ hai.
3. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả sân, xả
si… cho đến… xả vô quý, họ kia có vô tri phải không?
4. Tha phương: Phải.
5. Tự phương: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả vô quý, họ
kia có vô tri phải không?
6. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả tham, họ
kia có vô tri phải không?
2. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
3. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả sân, xả si…
cho đến… xả vô quý, họ kia có vô tri phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả vô quý, họ
kia có vô tri phải không?
6. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
13] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 3
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả tham, tu
hành đạo mình… cho đến… tu Bồ-đề phần, họ kia có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả tham, tu
hành đạo mình… cho đến… tu hành Bồ-đề phần, họ kia có vô tri phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
5. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả sân… cho đến…
xả vô quý, tu đạo mình… cho đến… tu Bồ-đề phần, họ kia có vô tri phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả vô quý, tu
Bồ-đề phần, họ kia có vô tri phải không?
8. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
14] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 4
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp ly tham, ly
sân, ly si… cho đến… chứng điều đã chứng, họ kia có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp ly tham… cho
đến… chứng điều đã chứng, họ kia có vô tri phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
15] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 5
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả tham, họ
kia không vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả tham, họ
kia không vô tri phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
5. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả sân… cho đến…
xả vô quý, họ kia không vô tri phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả sân… cho đến… xả vô
quý, họ kia không vô tri phải không?
8. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
16] Thiện xảo đối với tự pháp hoặc tha pháp 6
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp xả tham, tu đạo
mình… cho đến… tu Bồ-đề phần… cho đến… xả vô quý, tu đạo mình… cho đến… tu Bồ-đề
phần…, họ kia không vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp xả vô quý, tu Bồ-đề phần,
họ kia không vô tri phải không?
4. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
5. Bên mình: A-la-hán thiện xảo đối với tha pháp ly tham, ly
sân, ly si… cho đến… chứng điều đã chứng, họ kia không vô tri phải không?
6. Bên nó: Đồng ý.
7. A-la-hán thiện xảo đối với tự pháp ly tham… cho đến… chứng
điều đã chứng, họ kia không vô tri phải không?
8. Bên nó: (chủ trương thứ hai) Tại sao?
[Đoạn thứ
17] Dẫn dụng Thánh ngôn lượng 1
1. Tự phương: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: Phải.
3. Tự phương: Không phải đã dựa vào đức Thế Tôn sao? Ngài nói:
“Này các tỳ-khưu! Ta nói kẻ biết và thấy thì lậu tận. Kẻ không biết và không thấy
thì không như vậy. Này các tỳ-khưu! Biết thế nào, thấy thế nào là có lậu tận
đây? Là sắc, sự tập của sắc, sự diệt của sắc, thụ… cho đến… tưởng… cho đến…
hành… cho đến thức, sự tập của thức, sự diệt của thức. Này các tỳ-khưu! Kẻ biết
như vậy, thấy như vậy là có lậu tận.” Có kinh như vậy phải không?
4. Tha phương: Phải.
(Phân
tích) Trở xuống Tự phương cùng dẫn dụng Thánh ngôn lượng 5 đoạn, Tha phương tất
nhiên thừa nhận Thánh ngôn lượng mà trả lời: “Đồng ý.”
5. Tự phương: Bởi vậy không nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Tiếp theo Tự phương lập ra tông và nhân của mình: không
nên nói: “A-la-hán có vô tri,” cũng tức tông của Tự phương là “A-la-hán không
có vô tri,” lý do nó thành lập là dẫn dụng Thánh ngôn lượng “Thế Tôn nói…,” đây
là dùng chủ trương được Tha phương đồng ý để làm nhân.
(Tham thảo) Vấn đáp đoạn thứ 17 ở trên cũng là một mô thức luận
biện có tính đại biểu, nội hàm ba nhóm mô thức vấn đáp: mô thức 1-2 là xác định
“tông” hoặc chủ trương của Tha phương, mô thức 3-4 là dẫn dụng Thánh ngôn lượng
và khiến Tha phương đồng ý; tiếp theo mô thức 5 là Tự phương lập ra tông và
nhân của mình. Luận biện này dừng lại ở đây, cứ như là Tự phương chiếm thế thượng
phong. Kỳ thực vẫn chưa hết, Tha phương sẽ trả lời: “Không trọn khắp,” vì Tha
phương cho rằng Thánh ngôn lượng này không đủ để thành lập “A-la-hán không có
vô tri,” Thánh ngôn lượng này chỉ thành lập A-la-hán không có vô tri loại thứ
nhất.
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Thế Tôn nói: “Này các tỳ-khưu! Ta nói kẻ biết và
thấy thì lậu tận. Kẻ không biết và không thấy thì không như vậy. Này các tỳ-khưu!
Biết thế nào, thấy thế nào là có lậu tận đây? Là sắc, sự tập của sắc, sự diệt của
sắc, thụ… cho đến… tưởng… cho đến… hành… cho đến thức, sự tập của thức, sự diệt
của thức. Này các tỳ-khưu! Kẻ biết như vậy, thấy như vậy là có lậu tận.” Có
kinh như vậy phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ-khưu! Ta nói kẻ
biết và thấy thì lậu tận. Kẻ không biết và không thấy thì không như vậy. Này
các tỳ-khưu! Biết thế nào, thấy thế nào là có lậu tận đây? Là sắc, sự tập của sắc,
sự diệt của sắc, thụ… cho đến… tưởng… cho đến… hành… cho đến thức, sự tập của
thức, sự diệt của thức. Này các tỳ-khưu! Kẻ biết như vậy, thấy như vậy là có lậu
tận.” Do nói như vậy nên A-la-hán phải không có vô tri. (Dẫn dụng Thánh ngôn lượng)
6. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
18] Dẫn dụng Thánh ngôn lượng 2
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Thế Tôn nói: “Này các tỳ-khưu! Với kẻ thấy biết
thì Ta nói lậu tận. Kẻ không biết không thấy thì không vậy. Này các tỳ-khưu! Kẻ
biết thế nào thấy thế nào là có lậu tận đây? Này các tỳ-khưu! Kẻ thấy biết rằng
“Đây là khổ” thì có lậu tận. Kẻ thấy biết rằng “Đây là khổ tập” thì có lậu tận.
Kẻ thấy biết rằng “Đây là khổ diệt” thì có lậu tận. Kẻ thấy biết rằng “Đây là
con đường dẫn đến khổ diệt” thì có lậu tận. Này các tỳ-khưu! Biết như vậy thấy
như vậy là có lậu tận.” Có kinh như vậy phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ-khưu! Với kẻ
thấy biết thì Ta nói lậu tận. Kẻ không biết không thấy thì không vậy. Này các tỳ-khưu!
Kẻ biết thế nào thấy thế nào là có lậu tận đây? Này các tỳ-khưu! Kẻ thấy biết rằng
“Đây là khổ” thì có lậu tận. Kẻ thấy biết rằng “Đây là khổ tập” thì có lậu tận.
Kẻ thấy biết rằng “Đây là khổ diệt” thì có lậu tận. Kẻ thấy biết rằng “Đây là
con đường dẫn đến khổ diệt” thì có lậu tận. Này các tỳ-khưu! Biết như vậy thấy
như vậy là có lậu tận.” Do nói như vậy nên A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
19] Dẫn dụng Thánh ngôn lượng 3
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Thế Tôn nói: “Này các tỳ-khưu! Kẻ không nhận thức
tất cả, không biến tri, không ly dục, không xả mà được khổ tận thì không có khả
năng. Này các tỳ-khưu! Kẻ nhận thức tất cả, biến tri, ly dục, xả mà được khổ tận
thì có khả năng.” Có kinh như vậy phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ-khưu! Kẻ không
nhận thức tất cả, không biến tri, không ly dục, không xả mà được khổ tận thì
không có khả năng. Này các tỳ-khưu! Kẻ nhận thức tất cả, biến tri, ly dục, xả
mà được khổ tận thì có khả năng.” Do nói như vậy nên A-la-hán phải không có vô
tri.
6. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
20] Dẫn dụng Thánh ngôn lượng 4
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Thế Tôn nói: “Này các tỳ-khưu! Thấy đầy đủ đều
lìa ba điều: hữu thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Lìa khỏi bốn nẻo dữ, không gây
sáu trọng tội.” Có kinh như vậy không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ-khưu! Thấy đầy
đủ đều lìa ba điều: hữu thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Lìa khỏi bốn nẻo dữ,
không gây sáu trọng tội.” Do nói như vậy nên A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên nó: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
21] Dẫn dụng Thánh ngôn lượng 5
* Sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: Thế Tôn nói: “Này các tỳ-khưu! Lúc này, Thánh
Thanh văn viễn ly trần cấu nên được pháp nhãn sinh, kiến sinh rằng ‘Tất cả tập
pháp là diệt pháp,’ vị Thánh Thanh văn đều xả đi ba kết: hữu thân kiến, nghi,
giới cấm thủ.” Có kinh như vậy phải không?
4. Bên nó: Đồng ý.
5. Bên mình: Vì đức Thế Tôn đã nói: “Này các tỳ-khưu! Lúc này,
Thánh Thanh văn viễn ly trần cấu nên được pháp nhãn sinh, kiến sinh rằng ‘Tất cả
tập pháp là diệt pháp,’ vị Thánh Thanh văn đều xả đi ba kết: hữu thân kiến,
nghi, giới cấm thủ.” Do nói như vậy nên A-la-hán phải không có vô tri.
6. Bên nó: Không trọn khắp!
(Tham thảo) Ở trên Tự phương cùng dẫn dụng Thánh ngôn lượng 5
đoạn để luận chứng A-la-hán phải không có vô tri. Tha phương cho rằng Thánh
ngôn lượng này không đủ để thành lập A-la-hán không có vô tri, Thánh ngôn lượng
này chỉ thành lập A-la-hán không có vô tri loại thứ nhất thôi. Có thể biết phạm
vi định nghĩa đối với “vô tri” của Tự phương và Tha phương có chỗ khác nhau,
tranh luận ở đây không có cái gọi là thắng hay thua.
[Đoạn thứ
22] Do Tha phương đặt câu hỏi: Vô tri loại thứ hai
1. Tha phương: Không nên nói: “A-la-hán có vô tri” phải không?
2. Tự phương: Phải.
(Phân tích) Ở đây tỏ ra rõ ràng chủ trương (tông) của Tự
phương là “A-la-hán không có vô tri.”
3. Tha phương: A-la-hán thì không biết tên họ của đàn bà, đàn
ông, không biết đi đúng đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ, gỗ, rừng
phải không?
4. Tự phương: Phải.
(Phân tích) Tha phương truy hỏi: “A-la-hán thì không biết tên
họ của đàn bà, đàn ông, không biết đi đúng đường hay nhầm đường, không biết tên
của cỏ, gỗ, rừng phải không?” Tự phương trả lời: “Đồng ý.”
5. Tha phương: Nếu “không biết tên họ của đàn bà, đàn ông… cho
đến… rừng,” bởi vậy nên nói: “A-la-hán có vô tri.”
(Phân tích) Tha phương đề xuất tông của mình: “A-la-hán có vô
tri,” lý do nó thành lập là “A-la-hán không biết tên họ của đàn bà, đàn ông…
cho đến… rừng,” đây là vô tri loại thứ hai. Luận biện này dừng lại ở đây, cứ
như là Tha phương chiếm thế thượng phong. Kỳ thực vẫn chưa hết, Tự phương sẽ trả
lời: “Không trọn khắp,” vì Tự phương cho rằng “không biết tên họ của đàn bà,
đàn ông… cho đến… rừng” không quy thuộc về “vô tri.”
* Đem trên sửa thành vấn đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên nó: A-la-hán không có vô tri phải không?
2. Bên mình: Đồng ý.
3. Bên nó: A-la-hán thì không biết tên họ của đàn bà, đàn ông,
không biết đi đúng đường hay nhầm đường, không biết tên của cỏ, gỗ, rừng phải
không?
4. Bên mình: Đồng ý.
5. Bên nó: Vì không biết tên họ của đàn bà, đàn ông… cho đến…
rừng nên A-la-hán phải có vô tri.
6. Bên mình: Không trọn khắp!
[Đoạn thứ
23] Vô tri loại thứ hai
1. Tự phương: Nếu “A-la-hán không biết tên họ của đàn bà, đàn
ông… cho đến… rừng” thì A-la-hán có vô tri phải không?
2. Tha phương: Phải.
(Phân tích) Tự phương đề xuất vấn đề: “A-la-hán không biết tên
họ của đàn bà, đàn ông… cho đến… rừng” thì A-la-hán có vô tri phải không?” thì
Tha phương trả lời đồng ý.
3. Tự phương: A-la-hán không biết quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả
Bất hoàn, quả A-la-hán phải không?
4. Tha phương: Thật không nên nói như vậy… cho đến…
(Phân tích) Tự phương lại đề xuất vấn đề: “không biết quả Dự
lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A-la-hán phải không?” Tha phương không cho
là phải, trả lời: “Tại sao?” Vì “không biết quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất
hoàn, quả A-la-hán” là vô tri loại thứ nhất, A-la-hán không có vô tri loại thứ
nhất.
* Đem trên sửa thành vấn
đáp kiểu Nhân minh luận:
1. Bên mình: Nếu “A-la-hán không biết tên họ của đàn bà, đàn
ông… cho đến… rừng” thì A-la-hán có vô tri phải không?
2. Bên nó: Đồng ý.
3. Bên mình: A-la-hán không biết quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả
Bất hoàn, quả A-la-hán phải không?
4. Bên nó: Tại sao? (biểu thị Bên nó không đồng ý. Có thể tiếp
tục vấn đáp nữa.)
III. KẾT NGỮ
Mô thức vấn đáp của Luận
sự (Kathāvatthu) khá là nhất trí với phương thức vấn đáp kiểu Nhân minh luận
ngày nay, chỉ là những luận đề này còn có thể tiếp tục luận biện nữa bằng
phương thức vấn đáp kiểu Nhân minh luận. Nội dung vấn đáp của Luận sự là hai bên đứng trên lập trường
riêng rồi trình bày chủ trương riêng của mình thôi, là một loại luận biện vô
cùng “chất phác.” Lấy Vô tri luận làm ví dụ liền có thể nhìn ra một cách rõ
ràng phạm vi định nghĩa đối với “vô tri” của Tự phương và Tha phương có chỗ
khác nhau nên mới có sự luận biện, hình như “mỗi bên trình bày mỗi kiểu,” họ giữ
lập trường riêng của mình chứ trong đó không có cái gọi là thắng thua. Cũng có
thể nói mục đích luận biện của Luận sự
là hai bên đứng trên góc độ khác nhau để rèn luyện tư duy, thanh lọc quan niệm,
như thế mà thôi.
Sài Gòn, Gò Vấp: 19-10-2019, dịch xong.
Email: thanhsang.nsb@gmail.com
Nhận xét
Đăng nhận xét