“Các bạn không can dự quân sự vào cuộc xung đột
Ukraina, vì những lý do rõ ràng. Nếu điều này xảy ra, bạn có sẵn sàng tham gia
(về mặt quân sự) vào việc bảo vệ Đài Loan không?” Một phóng viên đặt câu hỏi
tại cuộc họp báo trong chuyến thăm gần đây của ông Biden tới Tokyo. Rõ ràng, cuộc
xâm lược của Nga vào Ukraina đã làm dấy lên cuộc tranh luận thú vị này trong giới
chính sách và các tổ chức tư vấn. Bất chấp những cảnh báo và biện pháp cứng rắn
của phương Tây, Nga đã xâm lược Ukraina và vẫn đang trong tình trạng chiến
tranh. Hơn 600 thương hiệu quốc tế đã rút khỏi Nga và Moscow đang phải vật lộn
để đáp ứng các nghĩa vụ nợ nước ngoài của mình. Châu Âu thậm chí đang tích cực
triệu tập các cuộc họp để áp đặt lệnh cấm vận chung đối với nguồn cung cấp năng
lượng của Nga. Nền kinh tế Nga đang chao đảo vì hành động chung của phương Tây.
Theo Ngân hàng Thế giới, GDP của Nga sẽ giảm 11,2% trong năm 2022.
Trong mọi trường hợp, các cuộc đàm phán đã bị đình trệ
và ông Putin dường như cam kết về triển vọng thống nhất đất nước Nga. Trong khi
đó, ông Biden đang chuyển trọng tâm của Mỹ sang châu Á, khởi động Khuôn khổ
Kinh tế Ấn-độ Dương–Thái Bình Dương (IPEF) – một chiến lược kinh tế được chờ đợi
từ lâu ở châu Á nhằm chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Cuộc xâm
lược của Nga — cuộc xung đột tàn khốc nhất ở châu Âu kể từ Thế chiến II — đã châm ngòi
cho một kịch bản tương tự ở châu Á: Liệu Trung Quốc có xâm lược Đài Loan tương
tự? Mặc dù nỗ lực tuyệt vọng của Biden để thành lập một liên minh Ấn-độ Dương–Thái
Bình Dương — được đặt tên tượng trưng là “NATO châu Á” — để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng điều
này đặt ra một câu hỏi bổ sung: Liệu phương Tây (và châu Á) có thể hiện sự đoàn
kết tương tự với Đài Loan hay không?
Mối quan hệ phức tạp giữa Trung Quốc và Đài Loan có từ
những năm 1940. Sau đó, Trung Quốc đang trải qua một cuộc nội chiến tàn khốc giữa
những người Cộng sản và những người theo chủ nghĩa Quốc dân. Năm 1949, Đảng Cộng
sản giành thắng lợi và thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) ở đại
lục. Quốc dân đảng (QDĐ) chạy trốn đến Đài Loan, một hòn đảo phía đông nam, nơi
họ thành lập Trung Hoa Dân Quốc. Mặc dù cả hai bên đều tuyên bố là người cai trị
hợp pháp của Đại Trung Hoa, Đài Loan không phải là một quốc gia độc lập được quốc
tế công nhận. Tuy nhiên, Đài Loan là một nền dân chủ tự trị với hiến pháp, cơ
quan lập pháp và quân đội riêng. Mặc dù những người theo Quốc dân — chủ yếu là
Quốc dân đảng — vẫn là một đảng chính trị quan trọng ở Đài Loan, cánh tả luôn
chiếm ưu thế trong nền dân chủ Đài Loan.
Đài Loan đã duy trì mối quan hệ cơ bản hài hòa với
Trung Quốc trong nhiều thập kỷ. Năm 2014, Quốc dân đảng thậm chí đã thông qua một
thỏa thuận thương mại để mở cửa ngành công nghiệp Đài Loan cho các khoản đầu tư
từ đại lục. Tuy nhiên, dư luận Đài Loan phản đối ý tưởng phụ thuộc vào Trung Quốc.
Các cuộc biểu tình ở Đài Bắc tăng mạnh do nhiều người lo ngại Trung Quốc sẽ
giành được ảnh hưởng kiểm soát ở Đài Loan. Kết quả là Đảng Dân tiến (ĐDT), đối
thủ của QDĐ, đã được bỏ phiếu để cầm quyền vào năm 2016. Tái đắc cử năm 2020,
nhà lãnh đạo Thái Anh Văn đã chống lại Trung Quốc và chính sách “một quốc gia,
hai chế độ” trong quá khứ. Sự thay đổi này đã khiến Trung Quốc tức giận và Đảng
Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã đẩy mạnh chiến dịch thống nhất Đài Loan và đại lục.
Năm 2021, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố: “Nhiệm
vụ lịch sử thống nhất hoàn toàn Tổ quốc (Trung Quốc) có thể và phải hoàn thành”.
Ông Tập đang bày tỏ mong muốn thống nhất Trung Quốc trong khi Tổng thống Nga
Vladimir Putin nhìn lại quá khứ huy hoàng của mẫu quốc Nga. Tuy nhiên, cách hành động
của hai siêu cường là rất khác nhau. Nga có một lịch sử phong phú về các cuộc
xâm lược quân sự, chiến tranh kéo dài và tài trợ cho các lực lượng ủy nhiệm nổi
dậy. Lịch sử can thiệp đẫm máu của Nga trải dài từ Afghanistan và Syria đến
Chechnya và Gruzia. Trung Quốc thiếu vũ lực để phô trương trong lịch sử. Như vậy, một
câu hỏi đơn giản được đặt ra: Liệu Trung Quốc có thể tiếp bước Nga và xâm lược
Đài Loan hay không?
Về mặt quân sự, Trung Quốc có thể thống trị và hủy diệt
Đài Loan trong vòng hai tuần. Bắc Kinh đã thể hiện sức mạnh quân sự của mình thông
qua nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau ở các khu vực xung quanh. Trong 30 năm
qua, Trung Quốc đã định hình được lực lượng hải quân lớn nhất thế giới với khoảng
355 tàu, theo ước tính từ báo cáo quân sự Trung Quốc hàng năm của Lầu Năm Góc.
Thậm chí, Trung Quốc còn ngang ngược triển khai các cơ sở quân sự trên vùng biển
tranh chấp ở Biển Đông để tuyên bố sự thống trị của họ đối với bán đảo này.
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (QGPNDTQ) tiếp tục hiện đại hóa không gian phản công tinh vi và khả năng mạng rất phức tạp. Do đó, không có gì ngạc
nhiên khi Trung Quốc sẽ trở thành gã khổng lồ David của Đài Loan trong cuộc đấu
tranh quân sự.
Nhưng liệu Trung Quốc có xâm lược Đài Loan? Xem ra khó
có thể xảy ra! Mặc dù các cuộc xâm lược và tập trận quân sự giữa hai bờ eo biển
đã tăng mạnh kể từ năm 2021, Trung Quốc chưa bao giờ dùng đến can thiệp quân sự
kể từ khi xâm lược Việt Nam năm 1979. Trong khi tình cảm dân tộc chủ nghĩa chi
phối khu vực cộng sản ở Trung Quốc đại lục, Trung Quốc có lợi ích cho sự thịnh
vượng của khu vực. Trung Quốc có một danh tiếng đáng được gìn giữ, đặc biệt là
sau thất bại tai tiếng của Mỹ ở Afghanistan. Một cuộc xâm lược sẽ gây bất ổn
cho khu vực và làm gián đoạn sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường mới nổi ở
châu Á. Báo cáo của WB ước tính cuộc chiến kéo dài tại Ukraina sẽ khiến các thị
trường châu Âu và Trung Á sụt giảm 9%, cao hơn gấp đôi so với mức giảm dự báo
ban đầu. Trung Quốc có lẽ muốn tránh một sự hỗn loạn tương tự ở châu Á nhiều
hơn. Vậy làm thế nào để Trung Quốc có thể thao túng lợi ích của mình ở Đài Loan
mà không cần xâm lược?
Trung Quốc đã hội nhập vào nền kinh tế Đài Loan trong
vài năm qua. Đài Loan là một trong những
nhà đầu tư lớn nhất tại Trung Quốc. Năm 2021, tổng vốn đầu tư của hai bờ eo biển
Đài Loan vào Trung Quốc đạt 4,79 tỷ USD. Đổi lại, Trung Quốc là đối tác thương mại
lớn nhất của Đài Loan. Hơn 40% xuất khẩu của Đài Loan là vào đại lục. Năm 2021,
xuất khẩu của Đài Loan sang Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông đạt mức cao kỷ lục
188,9 tỷ USD. Thương mại rộng rãi như vậy là do mức độ nới lỏng bất thường của
thuế quan và giá cước vận chuyển thấp đến đại lục. Xuất khẩu trái cây sang
Trung Quốc đại lục đã tạo ra một bong bóng phụ thuộc xung quanh Đài Loan. Vì
nông dân chỉ xuất khẩu sang Trung Quốc, Bắc Kinh hiện nắm giữ một phần đáng kể
về tính bền vững của nền kinh tế Đài Loan. Một lệnh cấm có thể ngay lập tức làm
giảm thu nhập của nông dân, những người sau đó có thể đổ lỗi cho chính phủ vì
đã làm xấu đi mối quan hệ với Trung Quốc. Đây là con đường thay thế cuối cùng
cho một cuộc xâm lược chủ động. Áp lực nội bộ đối với chính quyền Đài Loan có
thể gây sát thương nhiều hơn, kết hợp với các chiến thuật đe dọa ở eo biển.
Năm 2021,
Trung Quốc đã cấm nhập khẩu hoàn toàn táo sáp, dứa và táo đường do Đài Loan sản
xuất. Nguyên nhân được trích dẫn chính thức là do sâu bệnh. Tuy nhiên, lý do thực
tế là gây ra cuộc chiến hoa quả giữa hai bờ eo biển Đài Loan để gây sức ép với
Đài. Theo các báo cáo không chính thức, thu nhập của nông dân đã giảm hơn 50%
sau khi Trung Quốc áp đặt lệnh cấm trái cây. Theo báo cáo năm 2019 của Hội đồng
Nông nghiệp Trung Hoa Dân Quốc, dứa, táo đường và táo sáp đóng góp hơn 148 triệu
USD doanh thu xuất khẩu từ Trung Quốc. Mặc dù đa dạng hóa hoạt động sang Nhật
Bản và Hồng Kông, nhưng biên lợi nhuận bị ảnh hưởng do chi phí vận chuyển tăng
và vấn đề bảo quản. Cuối cùng, nông dân phải chuyển sang trồng các loại cây
khác để mưu sinh. Ảnh hưởng kinh tế này của Trung Quốc đối với Đài Loan khiến
chiến tranh quân sự trở nên thừa thãi. Trung Quốc có thể kiểm soát chính sách ở
Đài Loan mà không cần dùng đến một cuộc xâm lược vũ trang. Bất chấp cam kết của
Mỹ đối với Đài Loan, những hạn chế trắng trợn trong mối quan hệ này càng tạo
thuận lợi cho Trung Quốc.
Trước câu hỏi của phóng viên tại Tokyo, ông Biden trả
lời khẳng định khá rõ ràng. Ông nêu rõ: “Có... đây là cam kết mà chúng tôi
đã đưa ra (với Đài Loan).” Tuy nhiên, Nhà Trắng đã nhanh chóng rút lại một
lời làm rõ khác, nói rằng: “Như Tổng thống đã nói, chính sách của chúng tôi
không thay đổi. Ông tái khẳng định chính sách Một Trung Quốc và cam kết của
chúng tôi đối với hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan.” Nỗ lực năm thứ
hai này nhằm sửa chữa sai lầm của ông Biden trong vấn đề Đài Loan là một minh
chứng hoàn hảo cho thủ đoạn liên minh giữa Washington và Đài Bắc. Thậm chí, ông
Biden còn nhanh chóng lùi lại và tái khẳng định chính sách “mơ hồ chiến lược”
của Mỹ đối với Đài Loan.
Do chính sách Một Trung Quốc, quan hệ giữa Mỹ và Đài
Loan vẫn chưa chính thức. Mặc dù tiềm thức về những lời hứa hẹn — chẳng hạn như
các tàu chiến thỉnh thoảng diễu hành qua eo biển Đài Loan — không có một liên
minh quân sự chính thức nào giữa Hoa Kỳ và Đài Loan. Bất chấp việc ông Biden mất bình tĩnh với Đài
Loan tại hội nghị thượng đỉnh Bộ Tứ, Đài Bắc thậm chí không nằm trong khuôn khổ
kinh tế được đưa ra. Mặc dù vậy, Mỹ vẫn tiếp tục cung cấp cho Đài Bắc pháo binh
và hệ thống phòng thủ trị giá 2,2 tỷ USD theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan nhằm
tăng cường khả năng chống lại các cuộc xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên, câu
hỏi cơ bản vẫn được đặt ra: Liệu Mỹ và các đồng minh có bảo vệ Đài Loan trong
trường hợp Trung Quốc xâm lược hay không? Câu trả lời là một chữ KHÔNG trắng trợn!
Theo một cuộc thăm dò gần đây của Quỹ Ý kiến công
chúng Đài Loan (TPOF), 53,8% người dân Đài Loan phần nào (hoặc hoàn toàn) không
tin rằng Washington sẽ đến cứu Đài Loan. Cuộc thăm dò tương tự cũng cho thấy chỉ
có 38,6% số người được hỏi thực sự nghi ngờ về một cuộc xâm lược của Trung Quốc!
Ngoài ra, các đồng minh của Mỹ ở khu vực Á–Âu đang hội nhập kinh tế với Trung
Quốc. Từ nguyên liệu thô và sản xuất đến chuỗi cung ứng và hậu cần — Trung Quốc
rất quan trọng đối với sự tồn tại và thịnh vượng kinh tế của họ. Ngoài ra, Mỹ đã rút ra những bài học đau đớn
từ những thất bại quân sự đáng xấu hổ ở nước ngoài. Từ Việt Nam sang Iraq rồi
Afghanistan. Do đó, những lời lẽ của Mỹ xung quanh cuộc xâm lược của Nga rất rõ
ràng: Không có xung đột quân sự trực tiếp với Nga. Trung Quốc là một cường quốc
hạt nhân chiếm ưu thế với khả năng siêu thanh vượt ra ngoài tầm phòng thủ của Lầu
Năm Góc. Do đó, đánh Trung Quốc sẽ không chỉ hủy diệt Mỹ ở bên kia Đại Tây
Dương; nó cũng có thể phá hủy nền kinh tế toàn cầu.
Ngoài ra, Trung Quốc còn hội nhập nhiều hơn vào hệ thống
kinh tế toàn cầu so với Nga. Trung Quốc hiện đang kiểm soát 18,33% GDP toàn cầu
– vượt qua cả tỷ lệ 15,83% của Mỹ. Nga chỉ chiếm 3,11% GDP toàn cầu. Trung Quốc
cũng là một trung tâm sản xuất toàn cầu và là thị trường xuất khẩu lớn nhất
sang hầu hết các khu vực trên thế giới, trong đó có Mỹ và châu Âu. Ngoài ra, Bắc
Kinh hiện là chủ nợ lớn nhất thế giới với dư nợ cho các nước khác trị giá 5.000
tỷ USD (hơn 6% GDP toàn cầu). Sẽ là vô nghĩa nếu cho rằng một liên minh các cường
quốc sẽ hợp lực để chống lại Trung Quốc, giống như cách Trung Quốc trỗi dậy khi
đối đầu với Nga.
Ngay cả sau 50 năm kể từ khi Trung Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc, Đài Loan vẫn chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc. Thậm chí, Mỹ còn né tránh việc công nhận tính hợp pháp của Trung Hoa Dân Quốc. Bản thân nó là một tuyên bố quyền lực. Ukraina đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với hơn 180 quốc gia trên thế giới. Bất chấp điều đó, Nga vẫn ngang ngược xâm lược Ukraina. Đài Loan có quan hệ không chính thức với hơn một chục quốc gia — không có quốc gia nào trong số đó là các cường quốc lớn trên thế giới. Sẽ là rất tham vọng (gần như ảo tưởng) khi nghĩ rằng Mỹ có thể thành lập NATO hoặc liên minh Quad để đối đầu với Trung Quốc. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu (EU) sau nhiều tháng cân nhắc chỉ có thể nhất trí cấm vận một phần nguồn cung cấp năng lượng của Nga cho Đông và Trung Âu. Ngay cả Ấn-độ — một thành viên cốt lõi của liên minh Quad — cũng đang tận dụng nguồn cung dầu rẻ hơn từ Nga, bất chấp sự dè dặt mạnh mẽ của phương Tây. Làm sao Mỹ có thể đưa ra quan điểm rằng Trung Quốc – một trong những đối tác thương mại lớn nhất ở châu Âu và châu Á – có thể bị cô lập về kinh tế để trả đũa cho cuộc xâm lược Đài Loan?
Không giống như Mỹ, tham vọng của Trung Quốc ở Thái
Bình Dương không phải là che đậy cũng không phải là thảm họa. Hiệp định về cảnh
sát giữa Trung Quốc và quần đảo Solomon mới đây là minh chứng cho thực tế này.
Chỉ vài ngày trước cuộc đàm phán 4 bên tại Tokyo, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
Vương Nghị có kế hoạch thăm một loạt quốc đảo ở Ấn-độ Dương–Thái Bình Dương nhằm
thúc đẩy vai trò của Bắc Kinh trong hợp tác khu vực. Động thái này còn hơn cả một
mánh lới quảng cáo quyền lực: đó là một câu trả lời mặc định—trái với cáo buộc
của phương Tây—rằng Trung Quốc thích cung cấp các thỏa thuận an ninh, các
chương trình đào tạo nghề và các kế hoạch cơ sở hạ tầng hơn là một cuộc xâm lược
bằng sức mạnh quân sự. Trong khi động lực cơ bản cho ảnh hưởng toàn cầu vẫn là
tầm nhìn cuối cùng của Trung Quốc, một cuộc xâm lược bằng bạo lực sẽ không nằm
trong kế hoạch này. Tuy nhiên, dưới thời ông Tập, sự cấp bách trong việc thu lại
Đài Loan đã tăng vọt đáng kể. Trong khi cuộc xâm lược có mùi tuyệt vọng, Trung
Quốc có thể sẵn sàng trả giá để tiếp tục di sản cổ xưa của mình. Việc Hồng Kông
tiếp tục đàn áp dân chủ là một ví dụ điển hình cho nỗi ám ảnh của Trung Quốc.
Đài Loan có lẽ cũng không khác gì. Do đó, về lâu dài, quan hệ Trung–Đài là một
bài toán khó. Tôi tin rằng Đài Loan sẽ không dám thúc đẩy việc công nhận chủ
quyền hay thiết lập quan hệ ngoại giao hay quân sự với các nước phương Tây.
Trung Quốc có thể sẽ không tiến hành một cuộc xâm lược trừ khi Đài Loan cố gắng
thoát khỏi sự cai trị của Đảng Cộng sản. Chiến lược của Đảng Cộng sản Trung Quốc
là đe dọa và gieo rắc sự phụ thuộc kinh tế, thay vì gây hấn và phá hoại quy mô
lớn.
Trung Quốc tự coi mình là người kế thừa quyền bá chủ của
Mỹ. Do đó, sẽ là chủ quan nếu cho rằng Trung Quốc xâm lược Đài Loan chỉ để khẳng
định sự thống trị của mình, phá hoại nền kinh tế đang phát triển của nước này
trong quá trình này. Tuy nhiên, việc khẳng định Trung Quốc không sẵn sàng can
thiệp để ngăn chặn sự Tây hóa của Đài Loan cũng được đơn giản hóa không
kém. Về cam kết quốc phòng của Mỹ, phía
Trung Quốc ở một phạm trù hoàn toàn khác với phía Nga. Vì vậy, tôi nghĩ ý tưởng
tách Trung Quốc ra khỏi nền kinh tế toàn cầu cũng không thể như tách Mỹ ra khỏi
nền ngoại giao toàn cầu. Thật là ảo tưởng!
Bởi: Nguyễn Thành Sang
Ngày 25-09-2022
Nhận xét
Đăng nhận xét