Chuyển đến nội dung chính

TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪNG CÓ THỜI KỲ BẮC THUỘC, TẠI SAO LẠI MẤT ĐẤT NÀY DƯỚI THỜI NHÀ MINH?

 Là một trong những thành viên của vòng văn hóa Hán – Đông Á, Việt Nam từng có thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm trong lịch sử (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên-đầu thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên do chính quyền Trung Quốc trực tiếp cai trị). Năm 939, lợi dụng tình trạng bất ổn nội bộ ở Trung Nguyên, lực lượng địa phương An Nam đã đánh bại Nam Hán để giành độc lập, gọi là nước An Nam và từ đó trở thành một quốc gia độc lập. Từ thời Tống đến thời Nguyên, các triều đại Trung Nguyên đều có những nỗ lực thu phục vùng đất Giao Chỉ cũ nhưng đều thất bại.

Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 15, vào thời nhà Minh, chính quyền trung ương đã từng một lần quận huyện hóa toàn bộ miền đất Việt Nam, lập nên một chiến công chưa từng có trong hàng trăm năm, nhưng lại rút khỏi An Nam chỉ trong hơn 10 năm và kết thúc một cách vội vàng.


1. Thu phục đất cũ

Cuối thế kỷ 14, nhà Trần ở An Nam suy tàn, năm 1400, quyền thần Hồ Quý Ly soán ngôi lập nên nhà Hồ. Sau đó không lâu, nhà Hồ bắt đầu liên tục tập kích quấy nhiễu vùng biên giới Trung–Việt và năm 1406 đã ngang nhiên chém chết vương thất nhà Trần do Minh Thành Tổ phái quân hộ tống về nước. Một hành động cực kỳ ngạo mạn như vậy đã khiến Chu Lệ, người ở vị trí cao nhất của Tĩnh Nạn, hoàn toàn tức giận, và kết quả là một cuộc đại chiến thảo phạt sự bất nghĩa đối với thượng quốc.

Lần này, cuộc Nam chinh của quân nhà Minh diễn ra vô cùng thuận lợi.

Nhà Minh lấy danh nghĩa đưa quân xuất chiến là “nâng đỡ nỗi khốn khổ của dân ngươi, phục hồi việc thờ cúng tổ tông họ Trần” (điếu nhĩ dân chi khốn khổ, phục Trần thị chi tông tự) và chiếm ưu thế tuyệt đối về dư luận, trong khi nhà Hồ ở phía bên kia lại thực sự độc đoán, không được lòng dân. Tháng 7 mùa hè năm đó, quân Minh chia làm hai hướng tiến vào An Nam, vẫn giữ được lực lượng chiến đấu hùng hậu như thế, từ khu vực Lạng Sơn, quân Minh đã nhanh chóng đột phá xuống đồng bằng sông Hồng, bao vây tiêu diệt chủ lực nhà Hồ và đánh chiếm thành công Thăng Long, chiếm được kinh đô Thanh Hóa, bắt sống cha con nhà Hồ tiếm quyền. Toàn bộ quá trình chiến tranh diễn ra chưa đầy một năm, cho thấy sức mạnh chiến đấu của quân Minh so với chỉ số cùi bắp của nhà Hồ.

2. Cai trị trực tiếp

Do con cháu nhà Trần đã diệt tuyệt, không ai kế vị, lại bị một bộ phận quan lại An Nam nịnh hót yêu cầu “phục quận huyện như xưa” nên chính quyền nhà Minh, vốn đã trót lọt quá mức, đã chuẩn bị cho An Nam chính thức bị thôn tính “mất nước” có một không hai trong lịch sử Trung Quốc. Vào tháng 6 âm lịch năm 1407, nhà Minh thành lập ba ty ở An Nam, thiết lập phương thức lãnh đạo trực tiếp của trung ương để tạo ra các phủ, châu và huyện, làm cho nó chính thức trở thành Bố chính sứ ty (tỉnh) thứ 14 sau khi nhà Minh lập quốc, và An Nam được đưa vào chế độ cai trị của nhà Minh như một lẽ tất yếu.

3. Nổi loạn và rút lui

Sau khi quân Minh chuyển từ quân triều đình sang quân đồn trú hàng ngày, bản thân người dân Việt Nam vốn rất biết ơn nhà Minh đã bắt đầu cảm thấy ác cảm, sau tất cả, một nơi đã giành được độc lập 500 năm từ thời Ngũ Đại cuối nhà Đường đã có một phần ý thức quốc gia, bỗng dưng “trở về” quốc gia cũ vẫn sẽ cảm thấy mất độc lập. Vì vậy, các cuộc bạo loạn lớn nhỏ ở các địa phương bắt đầu bùng nổ, nhưng may mắn là lực lượng chiến đấu của quân Minh trong thời Vĩnh Lạc rõ ràng là mạnh mẽ, và về cơ bản không có vấn đề gì với việc đàn áp những cuộc nổi loạn lớn nhỏ ở các địa phương.

Mặt khác, nhà Minh cũng đã thực sự cân nhắc kỹ lưỡng việc trị lý An Nam, bao gồm việc thăng chức cho con em của những người thuộc tầng lớp trên vào Trung Quốc học tập, làm sâu sắc thêm mối quan hệ văn hóa của các nhân tài chính trị của họ, và lôi kéo các nhân sĩ cường hào bản xứ vào quan phủ của Bố chính sứ ty Giao Chỉ. Tuy nhiên, chính sách “Trung Quốc hóa” này của chính quyền nhà Minh không thể được thực hiện một cách suôn sẻ.

Đầu tiên, sự tiếp quản về lại trị của nhà Minh tại An Nam đã khá thất bại. Như là một lãnh địa vừa mới chinh phục, nhà Minh đáng lẽ phải sai phái những quan viên xuất sắc có năng lực chính vụ mạnh mẽ hơn để bắt tay trọn vẹn. Chu Lệ từng có dạo sai danh thần Hoàng Phúc làm Thượng thư nhai kiêm nhiệm Bố chính sứ của Giao Chỉ thừa tuyên Bố chính sứ ty, kiêm luôn Án sát sứ của Đề hình Án sát sứ ty, trong thời gian đương chức Hoàng Phúc đã “biên soạn hộ tịch, đặt ra thuế phú, chấn chỉnh trường học, bố trí quan sư. Mấy lần cho gọi các phụ lão tuyên dụ đức ý, răn ngừa bọn thuộc lại không được làm càn, tất cả đều giữ gìn cho được yên tĩnh, trên dưới đều thuận theo”. Nhưng đáng tiếc là sau đó tự dưng Minh Thành Tổ lại sai hoạn quan Mã Kỳ đến làm lộn xộn tình hình, người này đến Giao Chỉ làm “Thái biện sứ”, vừa tham ô lại vừa tàn nhẫn, không việc ác nào không làm, càng khiến cho một viên quan người bản xứ là Lê Lợi đứng dậy làm khởi nghĩa Lam Sơn lừng danh vào năm 1418, từ đó càng khiến cho cục thế của nhà Minh tại An Nam mỗi lúc một băng hoại.

Ngoài ra, khu vực An Nam lẽ ra phải có một trọng thần có khả năng quân sự và chính trị cao là Trương Phụ để trấn thủ. Nhưng thời điểm đó trùng với cuộc xâm lược của Mông-cổ ở phía Bắc, Chu Lệ không chỉ cần một trọng thần phụ tá, mà còn không muốn Trương Phụ ở An Nam “tuyển chọn sĩ nhân tráng dũng” để củng cố binh quyền cho bản thân, nên đã nhiều lần sai Trương Phụ ra Bắc, khiến quân Minh ở vùng An Nam thiếu đi một đầu não chủ lực. Thêm vào đó, việc đi xuống Tây Dương, chinh phạt Mông-cổ, dời đô về Bắc Kinh thời Vĩnh Lạc đã tiêu hao rất nhiều lực lượng quốc gia của nhà Minh, tình hình tài chính của nhà Minh sau khi Minh Tuyên Tông nối ngôi không khả quan, Lê Lợi chớp thời cơ làm lớn, tương quan lực lượng hai bên rơi vào tình thế khó khăn “thế này càng hao thế kia càng mạnh”, nhà Minh lún sâu vào vũng lầy tài chính, cũng đành bất đắc dĩ buộc phải rút quân.  

 

 

Tên gốc: “越南在历史上曾有过一段北属时期,明朝时期为何会失去这块土地?

Dịch giả: Nguyễn Thành Sang

Nguồn: qulishi.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th