Chuyển đến nội dung chính

LÀO ĐANG PHẢI ĐỐI MẶT VỚI SỰ PHẢN ĐỐI MẠNH MẼ CỦA CÔNG CHÚNG KHI NỀN KINH TẾ NƯỚC NÀY TIẾN TỚI VỠ NỢ

 Cuộc khủng hoảng nợ đã làm dấy lên làn sóng giận dữ hiếm hoi trên mạng xã hội đối với các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản.


Công nhân tại công trường xây dựng đập thủy điện do Trung Quốc hỗ trợ ở tỉnh Bokeo, Lào năm 2017. Nợ nước ngoài của quốc gia Lào ước tính khoảng 1,3 tỷ USD và phải được giải quyết trước năm 2025. © Hình ảnh của Getty

BANGKOK -- Sự phẫn nộ của công chúng đối với các nhà lãnh đạo của quốc gia độc đảng này đã nổ ra trong tháng này ngay sau khi một bài báo bằng tiếng Lào có tiêu đề “Sự sụp đổ của nền kinh tế Lào” xuất hiện trên trang Facebook của RFA do Mỹ tài trợ.

Hơn 1.100 câu trả lời cho bài đăng bao gồm những tiếng gầm gừ giận dữ của người dân Lào bên trong quốc gia Đông Nam Á không giáp biển và giàu tài nguyên này. Người dân đã trút giận dù việc trả lời rất dễ theo dõi. “Chính phủ không quản lý được kinh tế thì hãy cút đi!” Một người phụ nữ đăng bài bức xúc nói.

Các nhà quan sát dày dạn kinh nghiệm ở thủ đô Vientiane của Lào không quên biểu hiện của sự giận dữ công khai này – cũng được thể hiện rõ trên các nền tảng truyền thông xã hội khác, bao gồm TikTok và YouTube. Họ cho rằng đây là một dấu hiệu hiếm hoi của lòng dũng cảm mà công chúng từ lâu đã phải im lặng trước sự sợ hãi đối với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (Đảng Cộng sản cầm quyền từ giữa thập niên 70 của thế kỷ 20).

  Một nhà quan sát giấu tên cho biết: “Mọi người đang mất dần sự sợ hãi và không sợ những lời chỉ trích công khai vì khủng hoảng kinh tế đang ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ”. “Truyền thông xã hội là con đường duy nhất mà họ có thể làm điều đó trong môi trường chính trị áp bức ở Lào”.

Khủng hoảng kinh tế đã âm ỉ trong những tháng gần đây. Các dấu hiệu này bao gồm hàng dài xe cộ tại các trạm xăng ở Vientiane và nhiều nơi khác, cũng như giá thực phẩm và các nhu yếu phẩm tăng vọt khi đồng nội tệ kip yếu hơn so với đồng dollar.

Vào tháng 6, các cơ quan xếp hạng quốc tế đã nâng mức đặt cược, cảnh báo rằng nền kinh tế Lào, vốn đã bị thâm hụt tài khóa và tài khoản vãng lai trong nhiều năm và đang phải vật lộn với cuộc khủng hoảng về thanh khoản và khả năng thanh toán, đang được cho là có thể vỡ nợ. Điều này ngay lập tức được so sánh với sự sụp đổ kinh tế của Sri Lanka. Sri Lanka hồi tháng 4 thông báo đã cạn kiệt đồng dollar để trả nợ nước ngoài trong năm nay.

Phản ứng của chính phủ trước sự thất vọng của công chúng cũng mang tính gợi mở không kém, với việc các quan chức chủ chốt thừa nhận cuộc khủng hoảng của nền kinh tế 20 tỷ USD. Thủ tướng Phankham Viphavanh cũng nằm trong số đó. Trong phiên họp gần đây nhất của Quốc hội Lào diễn ra vào tuần trước, ông đã thẳng thắn tiết lộ rằng ông biết về những lời chỉ trích trên mạng xã hội.

Bộ trưởng Tài chính Bounchorn Oubonpaseth cũng thẳng thắn không kém về áp lực gia tăng đối với quốc gia nghèo với 7,5 triệu dân này.  Vào hôm thứ Hai, ông nói với các đại biểu Quốc hội rằng đất nước đã tích lũy một khoản nợ khổng lồ do “các khoản vay lớn đã được vay trong năm 2010 và 2016 để phát triển đất nước”. Ông cho biết trả nợ nước ngoài hàng năm cả gốc và lãi đã tăng từ 1,2 tỷ USD năm 2018 lên 1,4 tỷ USD vào năm 2022. “Năm 2010, số tiền trả nợ nước ngoài của chúng ta chỉ là 160 triệu USD và có thể trả được từ nguồn thu nội địa”.

Sự mở cửa tương tự cũng được thể hiện rõ trong tháng 5 khi các quan chức cấp cao của Ngân hàng Trung ương Lào cho biết chỉ 33% doanh thu xuất khẩu của nước này được chuyển trở lại vào các ngân hàng địa phương vào cuối tháng 4, điều này khiến nước này không thể xây dựng đủ dự trữ ngoại hối để thanh toán nhập khẩu và trả nợ nước ngoài. Nguồn thu ngoại tệ chính là từ việc bán năng lượng cho các nước láng giềng từ các dự án thủy điện, công nghiệp khai thác và các sản phẩm nông nghiệp.

Ông Toshiro Nishizawa, giáo sư Đại học Tokyo, cho rằng sự thẳng thắn quan chức này là có lựa chọn sau những thách thức tài chính mà ông gọi là “lớn và đáng lo ngại”. Nhưng Size, người từng làm cố vấn chính sách cho chính phủ Lào, cho biết các cảnh báo chính thức là “công thức, đặt trước và chung chung”. Ông dự kiến các chỉ số kinh tế và tài chính quan trọng sẽ không được tiết lộ ngay lập tức, “một phần do nhạy cảm chính trị và hạn chế năng lực.”

Các nhà phân tích cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế đe dọa trật tự cộng sản vốn thâm căn cố đế, xảy ra sau các cuộc khủng hoảng bên ngoài liên tiếp: Covid năm 2020 đã làm cạn kiệt nguồn thu nước ngoài từ ngành du lịch béo bở; Chiến tranh Nga-Ukraine, làm giá dầu tăng cao; và sự gia tăng lãi suất của Mỹ, vốn đang làm suy yếu tỷ giá đồng nội tệ so với đồng dollar, khiến giá nhập khẩu cao hơn.

Việc sa thải Thống đốc Ngân hàng Trung ương Lào Sonexay Sitphaxay trong tuần này cho thấy sự hoảng loạn đã bắt đầu. Ông đã bị thay thế bởi cựu Thứ trưởng Tài chính Bonleua Sinxayvoravong.

Nhưng những dấu hiệu suy giảm kinh tế đã rõ ràng. Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các thể chế quốc tế khác đã cảnh báo Lào trước khi dịch bệnh bùng phát rằng nước này đang hướng tới một cuộc khủng hoảng nợ nước ngoài do dự trữ ngoại hối cạn kiệt.

“Thâm hụt tài khoản vãng lai lớn, mức dự trữ thấp, mức nợ cao, tỷ giá hối đoái được quản lý và hệ thống ngân hàng bị đô la hóa làm trầm trọng thêm tính dễ bị tổn thương vĩ mô”, IMF lưu ý sau cuộc tham vấn Điều IV về kinh tế Lào hồi tháng 8/2019.

Theo Ngân hàng Thế giới, tính đến cuối năm 2021, nợ công của nước này đã tăng vọt lên 88% GDP, nợ nước ngoài ước tính khoảng 14,5 tỷ USD.  Danh sách các nhà cho vay nước ngoài của nước này bao gồm các chủ nợ Trung Quốc, chiếm 47%, phản ánh mối quan hệ chặt chẽ của Lào với Trung Quốc. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã trở thành nước cho vay, nhà đầu tư và đối tác thương mại lớn nhất của Lào. Ngoài ra, 11% số nợ của Lào với Trung Quốc đến từ các khoản vay song phương.

Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu Á cùng chiếm 17%, trái phiếu có chủ quyền quốc tế chiếm 17% và các khoản vay không ưu đãi chiếm 8%. Một số trái phiếu là đồng baht Thái-lan và đồng dollar Mỹ. Số trái phiếu này là đồng baht và đồng dollar sau khi Lào tiếp cận thị trường vốn Thái-lan vào năm 2013.

Ngân hàng Thế giới cho biết nợ nước ngoài của Lào ước tính khoảng 1,3 tỷ USD, được thanh toán hàng năm vào năm 2025-một thách thức khó khăn đối với một quốc gia có dự trữ ngoại hối tương đương. Trên cơ sở đó, Moody’s Investors Service đã hạ mức xếp hạng của Lào từ Caa2 xuống Caa3 trong tháng này. Fitch Ratings vẫn giữ nguyên mức xếp hạng CCC đã được nhắc lại vào tháng 8/2021, song lưu ý rằng “có khả năng vỡ nợ.”

“Dư địa để Lào tiếp cận nguồn tài chính bên ngoài để trả nợ đã bị thu hẹp”, Jeremy Zook, trưởng bộ phận xếp hạng chủ quyền của Fitch tại Hong Kong, đồng thời là nhà phân tích hàng đầu tại Lào, nhận định. “Nó có rất nhiều khoản thanh toán song phương và đa phương trong năm nay, với gần một nửa số nợ phải trả cả gốc và lãi, trong khi có các khoản thanh toán trái phiếu nhỏ hơn và các khoản vay ngân hàng hợp vốn cần được giải quyết”.

Mặc dù vậy, các nhà chức trách của chính phủ Lào vẫn chưa sẵn sàng thảo luận công khai với các nước láng giềng thân thiện như Thái-lan và đây là một vấn đề nan giải. Thái-lan là nguồn nhập khẩu chính của Lào và cũng là khách hàng chính về xuất khẩu thủy điện của Lào. Người ta có thể nghe thấy sự im lặng khi Thủ tướng Lào thăm Bangkok vào đầu tháng 6. Trong cuộc hội đàm giữa ông Phanham và Thủ tướng Thái-lan Prayuth Chan-ocha, không có dấu hiệu nào cho thấy cuộc khủng hoảng nợ của Lào ngày càng trầm trọng.

“Chúng tôi đã nhận thức được vấn đề, nhưng trong các cuộc đàm phán chính thức, phía họ không đề cập đến vấn đề này”, một nguồn tin từ văn phòng Prayuth, người chứng kiến cuộc thảo luận, nói với Nikkei Asia. “Có rất ít dấu hiệu cho thấy họ đang phải đối mặt với các vấn đề nợ nần và cần một số trợ giúp tài chính. Không có gì. Rất kín tiếng”.

 

Viết bởi MARWAAN MACAN-MARKAR, Phóng viên khu vực châu Á

Tên gốc: "Laos faces public backlash as economy teeters toward default"

Dịch bởi Nguyễn Thành Sang

Nguồn: asia.nikkei.com

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th