Tác giả: TRỊNH
TÙ NGỌ
Nguyễn Thành Sang (dịch)
“Đại hội Toàn quốc đã chỉ ra rằng kể từ khi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó không chỉ là người truyền thừa trung thực và là người quảng bá văn hóa truyền thống xuất sắc của Trung Quốc, mà còn là một người ủng hộ tích cực và phát triển văn hóa tiên tiến của Trung Quốc.” Bản tin của Đại hội Toàn quốc lần thứ 6 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đợt XVII được thông qua tại Đại hội Toàn quốc lần thứ 6 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đợt XVII nói như vậy. Nhìn vào đoạn văn trong bản tin này, đến tận bây giờ họ vẫn luôn có kiểu tư duy “lời nói dối cứ lặp đi lặp lại nghìn lần sẽ thành chân lý,” muốn là mình nói liên tục thì người khác sẽ tin, nhưng từ khi cải cách mở cửa đến nay đã là 33 năm, tầm nhìn của người Trung Quốc đã mở ra, những trò kịch cũ đâu thể lừa gạt người ta được nữa. Kể từ ngày thành lập cho đến bây giờ, Đảng Cộng sản Trung Quốc có ba vị lãnh tụ mang tầm ảnh hưởng lớn đó là Trần Độc Tú, Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình, nhưng không một ai trong số họ là người truyền thừa trung thực của văn hóa truyền thống xuất sắc của Trung Hoa cả.
Văn hóa luôn là tinh thần của mỗi một dân tộc, nó đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển của dân tộc này và sự tương tác giữa người với
người. Văn hóa là các lối sống khác nhau của một dân tộc, bao gồm những mô hình
tập quán của tư tưởng và hành vi. Văn hóa là đa cấp độ, và phân chia thô sơ thì
nó có ba cấp độ: cấp độ đầu tiên là cấp độ văn hóa cơ bản nhất, cụ thể là lối sống,
tập quán, phong tục, v.v, và lĩnh vực ứng dụng của nó là cuộc sống hàng ngày của
cá nhân; cấp độ thứ hai là văn hóa chế độ, và không gian áp dụng của nó là lĩnh
vực đời sống công cộng xã hội; cấp độ thứ ba là văn hóa của cấp độ tinh thần,
bao gồm các quan niệm giá trị, đạo đức luân lý, hệ thống tri thức, nghiên cứu
khoa học, lý thuyết tư tưởng và tín ngưỡng, v.v. Phạm vi áp dụng của nó là phán
đoán giá trị xã hội và cá nhân, quy tắc ứng xử, tu dưỡng tri thức, cách suy
nghĩ và đời sống tinh thần.
Văn hóa truyền thống Trung Quốc là một nền văn hóa dân tộc phản
ánh các đặc điểm và phong cách dân tộc trong sự tiến hóa của nền văn minh Trung
Hoa, được tạo ra bởi dân tộc Trung Hoa và tổ tiên của họ, được thừa kế và phát
triển bởi dân tộc Trung Hoa qua nhiều thế hệ, là nền văn hóa với lịch sử lâu đời,
ý nghĩa sâu sắc và truyền thống tốt đẹp. Ngoài nội dung cốt lõi của văn hóa Nho
gia, nó còn chứa các hình thức văn hóa khác, chẳng hạn như văn hóa Đạo gia v.v.
Trong xã hội nông nghiệp Trung Quốc trong hơn hai nghìn năm, tư tưởng Nho gia
luôn chiếm một vị trí chính thống trong lĩnh vực ý thức hệ chính thức, người
sáng lập Nho giáo là Khổng Tử, một trong những nội dung quan trọng nhất trong
tư tưởng Khổng Tử là “lễ” và “nhân.”
Mạnh Tử là người phát triển lớn nhất của Nho giáo, ông đề xướng
nghĩa hòa nhân chính v.v… Nội dung của văn hóa Trung Hoa vô cùng phong phú, từ bách
gia chư tử đến cầm kỳ thư họa, văn học truyền thống, lễ tết truyền thống, thơ
ca Trung Hoa, tuồng kịch Trung Quốc, kiến trúc Trung Quốc, chữ Hán tiếng Hán,
y học cổ truyền Trung Quốc, kỹ nghệ dân gian, võ thuật Trung Hoa, phong tục dân
gian, nấu nướng ẩm thực, truyền thuyết thần thoại, âm nhạc truyền thống và các câu
đối liễn Trung Quốc v.v. đều bao hàm trong đó. Nhưng nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
trung, hiếu, đễ, tiết, thứ, dũng là tinh thần chính của văn hóa truyền thống
Trung Quốc. Văn hóa truyền thống Trung Quốc là sự kết tinh của trí tuệ dân tộc
Trung Hoa và sự biểu hiện của di sản lịch sử dân tộc Trung Hoa trong đời sống
hiện thực. Hệ tư tưởng này chứa đựng một tinh thần khoa học văn hóa phong phú,
chủ yếu được phản ánh trong ba khía cạnh: một là cái học về sự gắn kết, và văn
hóa truyền thống Trung Quốc là văn hóa của sức gắn kết nội bộ; Thứ hai là cái học
về sự kiêm dung, văn hóa truyền thống Trung Quốc không phải là một hệ thống
khép kín, nó thực hiện sự kiêm dung với Phật giáo đối ngoại một cách cởi mở, thứ
ba là cái học về vận dụng vào giúp đời, và văn hóa truyền thống Trung Quốc nổi
lên phong cách học tập vận dụng vào giúp đời của Nho gia.
Các lãnh tụ của Trung Cộng từ Trần Độc Tú sang Mao Trạch Đông
đến Đặng Tiểu Bình không một ai là người truyền thừa trung thực của văn hóa
truyền thống xuất sắc của Trung Hoa cả. Trần Độc Tú là một kẻ phản văn hóa truyền
thống Trung Quốc từ đầu đến chân, Mao Trạch Đông thì sử dụng chủ nghĩa Marx để cải
tạo văn hóa Trung Hoa, để cho chủ nghĩa Max khoác lên chiếc áo choàng văn hóa
Trung Quốc, nhìn bề ngoài trông như có các nhân tố của văn hóa Trung Quốc, nhưng
thực chất vẫn là chủ nghĩa Marx, Đặng Tiểu Bình là kẻ kế thừa phần cặn bã của
văn hóa Trung Quốc, ông ta chủ yếu là kế thừa phần cặn bã của văn hóa Trung Quốc.
Về cơ bản, Trần Độc Tú là một con tắc kè hoa, tư tưởng trong đời
ông ta biến đổi nhiều lần, sau khi đậu Tú tài năm 17 tuổi, chịu ảnh hưởng bởi
tư tưởng duy tân của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu thì ông ta về đảng họ
Khang. Sau thì lại chịu ảnh hưởng của phái Cách mạng và biến từ “Khang đảng” biến
thành “loạn đảng.” Khi Cách mạng Tân Hợi lật đổ sự cai trị của nhà Thanh, thành
lập Trung Hoa Dân Quốc, ông ta sáng lập tờ Tân
Thanh niên phê phán chính trị, đạo đức, văn học truyền thống một cách dữ dội,
dồn mọi nỗ lực đề xướng phong trào văn hóa mới, cuối cùng chịu ảnh hưởng của
Liên Xô lại biến thành người theo chủ nghĩa Marx và lãnh tụ đầu tiên của Trung
Cộng tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự thao túng của người Liên Xô, trong
thời kỳ Kháng chiến chống Nhật lại trở thành người theo phái Trotsky (Đệ tứ Cộng
sản – ND).
Là người phát khởi phong trào 4-5 (Ngũ tứ vận động) và là người
sáng lập phong trào chủ nghĩa Cộng sản Trung Quốc, sự chuyển biến trong tư tưởng
của Trần Độc Tú từ “dân chủ” sang “chuyên chế” và “xã hội chủ nghĩa,” tập trung
thể hiện quỹ đạo của sự tiến hóa đổi mới phong trào hiện đại hóa Trung Quốc vào
đầu thế kỷ 20.
Phong trào 4-5 là một phong trào phê bình văn hóa đánh giá lại
giá trị của văn hóa truyền thống. Mục đích phát động phong trào văn hóa mới lấy
học giả khai sáng như Trần Độc Tú làm đại biểu là nhằm phê bình hệ thống giá trị
Nho học của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Sự phê phán của họ Trần đối với Khổng
giáo chủ yếu là tập trung vào luân lý cương thường lễ giáo của Nho gia và tư tưởng
“định vi nhất tôn” của Nho giáo. Họ Trần cho rằng tinh hoa của Khổng Nho nằm ở
lễ giáo, học thuyết Tam cương của Nho gia dựng trên nền tinh thần lễ giáo của
Khổng Tử là nguồn gốc của chính trị luân lý Trung Quốc. Vua là giềng mối của bề
tôi, cha là giềng mối của con, chồng là giềng mối của vợ, đó là ba giềng mối
(Tam cương), nhấn mạnh một cách phiến diện đến các nghĩa vụ lần lượt là “trung,”
“hiếu,” “tiết” của người làm bề tôi, làm con, làm vợ, từ đó khiến họ trở thành
sản phẩm phụ thuộc của vua, của cha, của chồng, do vậy “trung,” “hiếu,” “tiết”
được đề ra trong học thuyết Tam cương đã gây trở ngại nghiêm trọng đến sự sinh
trưởng nhân cách độc lập của cá thể. Đạo đức này là đạo đức cũ của thời đại
phong kiến trong xã hội tông pháp, bắt nguồn từ nó mà sinh ra những thứ như
cương thường, phong tục, chính trị, pháp luật của Trung Quốc truyền thống. Tóm
lại:
“Những trạng thái bi thảm và bất an của xã hội
được hiện ra trong lịch sử Trung Quốc cũng đều là do ba thứ đạo đức này đang
tác quái.”
(Trích Thuyết Điều hòa và Đạo đức cũ, “Độc Tú văn tồn,” tr. 565.)
Theo Trần Độc Tú thấy, một tệ hại khác đối với xã hội Trung Quốc
của Nho học là tư tưởng “định ư nhất tôn” của nó.
“Từ thời Hán Vũ đến nay, sự học vẫn chuộng
tôn vinh một nhà, còn những nhà khác thì phế truất, dân tộc ta thông minh nhưng
vì cái tệ này cầm tù, chất độc cứ lan đến nay vẫn chưa thể giải được.”
(Trích Lại trả lời Thường
Nãi Đức, “Độc Tú văn tồn,” tr. 649.)
Quan điểm của Trần Độc Tú đối với Khổng giáo về tổng thể luôn
dựa trên một phán đoán như vầy: đạo của Khổng Tử không thể dung hòa với đời sống
hiện đại. Trần tiến hành phê phán Nho học từ các cấp độ chính trị, kinh tế, đạo
đức. Ông chỉ ra, “đời sống hiện đại phải lấy kinh tế làm mạng mạch,” xã hội hiện
đại lấy “thực lợi” làm bản vị và đặc trưng cơ bản của nó là “phát triển sản xuất
và công nghiệp,” “phân công hợp lực” và “tôn trọng sức sản xuất cá nhân.” Còn sự
trọng nghĩa khinh lợi và đạo hiếu đễ của luân lý Nho gia là điều mâu thuẫn với
đời sống hiện đại.
“Sự nẩy nở tiền tài của công lợi từ xưa cho
là đáng xấu hổ; nuôi con cái và hiếu thảo cha mẹ là nghĩa vụ trọn đời; đạo đức
này gây hại cho nền kinh tế.”
(Trích “Độc Tú văn tồn,” tr. 19.)
Theo Trần Độc Tú, văn hóa giữa “mới” và “cũ” đã bị xé thành một
khoảng cách. Ông cho rằng “mới” và “cũ” như nước với lửa không thể dung hòa.
“Hai pháp mới và cũ giống như nước với lửa,
giá với than, chắc chắn không thể tương dung; nếu muốn song hành cả hai cái ắt
sẽ gây nên trò chẳng ra con bò hay con ngựa gì sất, không ra thể thống gì.”
(Trích Vấn đề Chính trị của Trung Quốc ngày nay, “Độc Tú văn tồn,” tr.
152.)
Vì ông kiên quyết phản đối thuyết Điều hòa mới cũ giữa “khoa học
Tây phương với đạo đức Trung Quốc.”
Trần Độc Tú lấy những lời chỉ trích Nho học như một cơ hội cho
cuộc cách mạng luân lý và phê bình văn hóa của việc đánh giá lại giá trị, nó mở
ra sự phê phán hùng hồn về bản chất cương thường lễ giáo Nho gia bảo vệ chế độ
đẳng cấp phong kiến, tư tưởng “học thượng nhất tôn” của Nho giáo, và tính chất
phong kiến tông pháp trong đạo của Khổng Tử mâu thuẫn với xã hội văn minh hiện
đại. Phải nói là sự phê phán Nho học của họ Trần quả thật đã vạch trần những tệ
đoan mặt trái của hệ thống giá trị Nho học cũng như ảnh hưởng tiêu cực của nó đối
với sự phát triển văn hóa và xã hội Trung Quốc. Sự phê phán Khổng giáo của họ
Trần đã thể hiện tinh thần thời đại “đánh giá lại tất cả mọi giá trị” của phong
trào văn hóa 4-5, tuy nhiên, sự phản Khổng của họ Trần cũng phản ánh sự lệch lạc
lý luận của chủ nghĩa Phản truyền thống Ngũ tứ. Chủ nghĩa Phản truyền thống của
họ Trần đã áp dụng một thái độ phủ định của logic chủ nghĩa rút gọn và chủ
nghĩa hình thức lấy cái bộ phận cho là tổng thể đối với Nho học và văn hóa truyền
thống. Họ Trần cho rằng Nho học không những là hệ thống đã hình thành mà còn
làm mất đi tiềm lực nội tại của sự canh tân cải cách, vì vậy cần “bài xích nó từ
gốc rễ.”
Cái sai lầm trong chủ nghĩa Phản truyền thống của Trần Độc Tú
nằm ở phép nhị phân theo chủ nghĩa hình thức “truyền thống” (Khổng giáo) với
“hiện đại.” Ông đã vạch ra một khoảng cách chia chẽ dứt khoát giữa “văn minh cổ
đại” với “văn minh cận đại,” rồi quy giản sự hiện đại hóa của Trung Quốc cho là
một quá trình Âu hóa “bỏ cũ lấy mới,” “bỏ Trung theo Tây.” Ông không hiểu rằng
hiện đại hóa là một quá trình thống nhất giữa “cải cách” và “kế thừa,” từ “truyền
thống” đến “hiện đại” là một sự liên tục của lịch sử không thể bị chia cắt. “Khoa
học” và “dân chủ” của phương Tây chính bản thân chúng cũng có suối nguồn Hy-lạp
và truyền thống văn hóa Hebrew, còn hiện đại hóa “dạng phát triển bề ngoài” của
Trung Quốc cũng phải đợi có sự cải tạo và canh tân từ truyền thống bản địa. Đó
là những điều Trần Độc Tú chưa từng nghĩ đến, ông ta chỉ biết cho “hiện đại
hóa” là một quá trình biến cách “bỏ cũ theo mới,” mà không đi sâu vào suy xét mối
quan hệ phức tạp giữa Trung–Tây, mới–cũ trong cuộc hiện đại hóa Trung Quốc. Điều
cần phải chỉ ra là chủ nghĩa Phản truyền thống quá khích của Trần và những gì
ông ta nói không phải là sự thiết kế văn hóa mang tính xây dựng mà chỉ là những
đường lối thay đổi mang tính phá hoại. Họ Trần chưa bao giờ suy nghĩ rằng thay
vì dẹp bỏ tổng thể Nho học, chi bằng cũng có thể tiến hành cải biến nó, cải tạo
những tính chất cơ bản của nó. Vì vậy, kết luận về Nho học với xã hội hiện đại
không thể tương dung của họ Trần chỉ là chụp mũ và võ đoán. Kỳ thực, luân lý
Nho gia về đại thể có hai loại là “những luân lý mang tính siêu việt tinh thần”
(như “nhân,” “nghĩa,” “trí”) và “những luân lý mang tính ước thúc xã hội” (như
“lễ” và “tam cương”), loại trước là giá trị đạo đức khá phổ biến, loại sau thì
bao gồm những quy phạm xã hội nói chung, lại bao quát luôn trật tự cương thường
nói riêng của xã hội tông pháp. Huống hồ Nho học không phải chỉ giới hạn ở luân
lý mà trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nó cũng có không ít những nhân tố
thích hợp với “hiện đại” cho đến “hậu-hiện đại.” Trên thực tế, Nho học đối với
sự hiện đại hóa Trung Quốc cũng không thiếu những điểm tương tự với Ki-tô giáo
đối với sự hiện đại hóa Âu châu. Phương án hiện đại hóa của họ Trần thật là quá
giản đơn: phá văn hóa Nho gia của truyền thống Trung Quốc. Tuy nhiên điều họ Trần
chưa từng nghĩ đến là phá hủy Nho giáo chỉ càng làm cho văn hóa Trung Quốc bị mất
khuôn khổ, để rồi sự mất khuôn khổ văn hóa này làm tiêu ma luôn năng lực sinh
trưởng hữu cơ của văn hóa, tòa nhà hiện đại hóa chắc chắn không bao giờ có thể
được xây dựng trên bãi hoang tàn của truyền thống được.
Từ sau phong trào 4-5, họ Trần thay đổi đối với việc không bàn
đến chính trị, lo vào công việc khai sáng thuở đầu, thừa nhận rằng vấn đề chính
trị có liên quan đến gốc rễ sự tồn vong của dân tộc, từ đó chuyển hướng góc
nhìn từ văn hóa sang chính trị. Sự chuyển biến tư tưởng này khiến họ Trần tiếp
thu chủ nghĩa Marx từ trào lưu lớn xã hội chủ nghĩa trong thời đại Ngũ tứ và trở
thành người đặt nền tảng cho phong trào Cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc. Điều
không nên xem thường là sự thay đổi của Trần Độc Tú sang chủ nghĩa Marx cũng là
một điểm đến hợp logic cho sự lựa chọn giá trị của ông ta. Như trước đã nói, lý
tưởng đại đồng “giải phóng toàn nhân loại” và hệ thống lý luận “chủ nghĩa xã hội
khoa học” của Marx chắn chắn là có sức quyến rũ đặc biệt đối với một người có
khuynh hướng giá trị chủ nghĩa tổng thể và tìm kiếm sự hội nhập giữa khoa học
và nhân văn như Trần. Họ Trần tin rằng:
“Xã hội chủ nghĩa sẽ trỗi dậy để thay thế nền
chính trị cộng hòa, cũng sẽ giống như nền chính trị cộng hòa hồi đó trỗi dậy để
thay thế chế độ phong kiến, theo lệ chung của những sự trao đổi chất, đó đều là
số mệnh không thể trốn tránh.”
(Trích Giá trị của ngày Kỷ niệm Quốc khánh, “Độc Tú văn tồn,” tr. 373.)
Sử quan Duy vật đã làm ông ấy nhận thức rằng quá trình tiến
hóa của xã hội loài người tuần tự diễn tiến lần lần từ xã hội săn bắn đến xã hội
nông nghiệp, xã hội công nghiệp Tư bản chủ nghĩa và xã hội công nghiệp Xã hội
chủ nghĩa. (Tham khảo Về vấn đề Xã hội chủ
nghĩa – Thuyết trình tại trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Đông, “Trần Độc Tú
văn chương tuyển biên,” [trung] tr. 287). Xã hội chủ nghĩa của Marx đã là “khoa
học” “khách quan” và “xây dựng trên nền kinh tế,” thì nó hoàn toàn khác với bất
kỳ loại Xã hội chủ nghĩa luân lý “không tưởng” và “chủ quan” nào trước đây. Ông
cho rằng có hai con đường để công nghiệp hóa: một là Tư bản chủ nghĩa, hai là
Xã hội chủ nghĩa. Nếu Trung Quốc đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa sai lầm như
Âu–Mỹ và Nhật Bản nối gót theo sau thì tương lai sẽ bị hiểm ác và giẫm lên vết
xe đổ của chủ nghĩa công nghiệp Tây phương. Trung Quốc với nền công nghiệp lạc
hậu tuy đang trong giai đoạn cất bước công nghiệp hóa nhưng muốn công nghiệp của
Trung Quốc tránh khỏi đường hiểm của chủ nghĩa công nghiệp Tây phương duy chỉ
có con đường đi theo Xã hội chủ nghĩa.
*
Mao Trạch Đông là sử dụng văn hóa Trung Quốc theo góc độ của
chủ nghĩa vị lợi, còn chủ nghĩa ông tin theo là Marx–Lenin, những thứ gì có
tính tương tự trong văn hóa Trung Quốc với chủ nghĩa Marx–Lenin đều được dọn
qua sử dụng, những thứ gì có thể giải thích cho chủ nghĩa Marx–Lenin thì lợi dụng,
còn không phù hợp với những nguyên lý của chủ nghĩa Marx–Lenin cho dù có chính
xác hoặc chân thật hay không cũng sẽ gạt bỏ, vậy thì có thể nói ông ta là truyền
thừa trung thực của văn hóa truyền thống Trung Quốc không?
Mao đã đọc rộng sách vở từ nhỏ, không chỉ dụng tâm học rèn qua
các cổ tịch kinh điển như Tứ Thư, Ngũ Kinh… mà còn đọc các trước tác của chư tử
Tiên Tần đến những tư tưởng gia đời Minh–Thanh, cũng như Nhị thập tứ sử đồ sộ
và các tác phẩm chính trị thời cận đại, đặt nền móng sâu dày để ông am hiểu về
văn hóa truyền thống. Ông còn tinh thông thi từ thời xưa, đặc biệt là thích Sở
từ, Đường thi, Tống từ và Nguyên khúc, có thể đọc thuộc lòng không ít thi từ
khúc phú. Đối với cổ văn các đời và tiểu thuyết cổ điển, kể cả những tiểu thuyết
bút ký và những tạp thư có tri thức và thú vị khác ông không những đã xem qua hết
mà còn có thể bàn luận rành rẽ về các danh tác, đưa ra kiến giải của mình.
Chính vì ông hiểu văn hóa Trung Quốc nhưng không tin văn hóa Trung Quốc, chỉ
tin chủ nghĩa Marx, cho nên khi ông trở thành người theo chủ nghĩa Marx thì ông
khoác chiếc áo choàng văn hóa Trung Quốc lên chủ nghĩa Marx để từ đó lừa bịp
người Trung Quốc, vậy thì không phải là người truyền thừa trung thực của văn
hóa Trung Quốc hay sao?
Năm 1938, trong Đại hội Toàn thể Đảng Cộng sản Trung Quốc kỳ
VI đợt 6 Mao Trạch Đông đã chỉ ra: học tập di sản lịch sử của chúng ta, dùng
phương pháp của chủ nghĩa Marx để tổng kết phê phán là một nhiệm vụ quan trọng
trong học tập của chúng ta. Trong thời gian chỉnh phong ở Diên An năm 1943, Mao
Trạch Đông chỉ ra: phong trào chỉnh phong chính là phải làm cho khoa học cách mạng
của chủ nghĩa Marx–Lenin càng tiến thêm kết hợp sâu sắc với thực tiễn cách mạng
Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc và văn hóa Trung Quốc. Tư tưởng Mao Trạch Đông
như là thành quả của phong trào chỉnh phong mặc dù đã có tấm áo choàng của văn
hóa truyền thống Trung Quốc nhưng linh hồn của nó không phải là văn hóa Trung
Quốc mà là chủ nghĩa Marx. Chính vì người sáng lập tư tưởng Mao Trạch Đông có
được nội hàm văn hóa truyền thống Trung Quốc thâm hậu nên tư tưởng Mao Trạch
Đông có hình thức dân tộc mới mẻ và đặc sắc. Hình thức dân tộc này theo như Mao
Trạch Đông nói, “nó mới mẻ và sống động, là tác phong Trung Quốc và là khí
phách Trung Quốc được nhân dân Trung Quốc ưa thích nghe thấy.” Trong phong trào
chỉnh phong, sau khi đã qua tổng kết bài học kinh nghiệm về những thắng lợi và
thất bại của cuộc Cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông chỉ ra: “thái độ học tập
chủ nghĩa Marx–Lenin chính là thái độ bắn mũi tên của nó. ‘Nó’ là chỉ cho cách
mạng Trung Quốc, ‘mũi tên’ chính là chủ nghĩa Marx–Lenin. Người cộng sản Trung
Quốc chúng ta sở dĩ phải tìm ‘mũi tên’ này chính là để bắn “nó” đi, tức là cách
mạng Trung Quốc và cũng là cách mạng Đông phương. Thái độ này chính là thái độ
cầu thị sự thật. ‘Sự thật’ tức là mọi sự vật tồn tại khách quan, ‘thị’ là liên
hệ nội bộ của các sự vật khách quan, tức là tính quy luật, ‘cầu’ chính là chúng
ta đi nghiên cứu.” Từ đó, người cộng sản Trung Quốc đã lấy ranh giới mới là “cầu
thị sự thật” làm định nghĩa cho Trung Quốc hóa và dân dã hóa cho tuyến đường tư
tưởng chủ nghĩa Marx. Nhiều tác phẩm của Mao Trạch Đông đã trở thành mực thước
của Trung Cộng về mặt hình thành tác phong Trung Quốc, khí phách Trung Quốc,
sáng tạo hình thức dân tộc. Vấn đề thuyết minh về văn hóa truyền thống và hình
thức dân tộc thể hiện được Mao Trạch Đông vận dụng hết sức phong phú và đa dạng,
từ đó khiến cho chủ nghĩa Marx nhìn bề ngoài có đặc sắc văn hóa Trung Quốc, Mao
Trạch Đông chính là người đã mặc trang phục Trung Quốc lên chủ nghĩa
Marx–Lenin, nhưng trong xương tủy của văn hóa Trung Quốc chỉ toàn là chất độc của
chủ nghĩa Marx–Lenin.
Trong cuốn Tân dân chủ
Chủ nghĩa luận, Mao Trạch Đông dùng nó để trình bày yếu nghĩa Trung Quốc
hóa chủ nghĩa Marx. Ông nói: “Những người cộng sản Trung Quốc cũng ứng dụng chủ
nghĩa Marx tại Trung Quốc như vậy, cần phải đem chân lý phổ biến của chủ nghĩa
Marx cho phù hợp hoàn toàn với thực tiễn cụ thể nơi bản xứ, tức là kết hợp nó với
những đặc điểm dân tộc qua hình thức dân tộc nhất định thì mới có tác dụng, quyết
không thể ứng dụng nó theo công thức chủ quan.” Mao Trạch Đông dùng lời ngắn gọn
với hàm ý sâu khoáy, dùng lời lẽ dân dã dễ hiểu để trình bày đặc điểm này cùng
với các lý luận của chủ nghĩa Marx nằm rải rác trong nhiều tác phẩm của ông. Ví
như trong cuốn Phản đối Bản bản chủ nghĩa
năm 1930 đã phê bình sắc nhạy với tư tưởng chủ nghĩa giáo điều tồn tại trong nội
bộ đảng và Hồng quân, chỉ ra: “Cuộc đấu tranh của chúng ta cần có chủ nghĩa
Marx nhưng không bao giờ có bất cứ hình thức kiểu ‘tiên triết’ thậm chí là ý niệm
thần bí nào trong đó. Cái ‘cội gốc’ (bản bản) của chủ nghĩa Marx là phải học tập
nhưng phải kết hợp với tình hình thực tế của nước ta, xác lập ‘lộ trình tư tưởng
sáng tạo cục diện mới từ trong đấu tranh’; sự thắng lợi của cuộc đấu tranh cách
mạng Trung Quốc phải dựa vào các đồng chí hiểu về tình hình Trung Quốc.”
Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc với đại biểu là Mao Trạch Đông
đã cải tạo văn hóa truyền thống Trung Quốc bằng chủ nghĩa Marx trong thời kỳ
cách mạng, sáng lập văn hóa chủ nghĩa Tân dân chủ. Đảng viên đảng Cộng sản
Trung Quốc với đại biểu là Đặng Tiểu Bình lại phát triển nên văn hóa Xã hội chủ
nghĩa đặc sắc Trung Quốc lấy việc kiến thiết Xã hội chủ nghĩa hiện đại hóa làm
tiêu biểu từ cuộc mở cửa cải cách trở đi. Mao Trạch Đông dùng chủ nghĩa Marx với
mục đích “hóa” (biến đổi) văn hóa truyền thống Trung Quốc chứ không phải là trở
về truyền thống cũ, mà là phải sáng tạo nền văn hóa Tân dân chủ chủ nghĩa trước
khi xây dựng chính quyền Trung Cộng và phải sáng tạo nền văn hóa Xã hội chủ
nghĩa sau khi đã xây dựng chính quyền Trung Cộng. Xã hội mới và quốc gia mới mà
đảng Cộng sản Trung Quốc phải kiến thiết không những được gọi là nền chính trị
mới, kinh tế mới, mà còn được gọi là văn hóa mới. Nền văn hóa mới này là văn
hóa dưới sự soi đường của chủ nghĩa Marx–Lenin. Có nghĩa là nền văn hóa mới
không chỉ có nội dung cách mạng của chủ nghĩa Marx–Lenin mà còn phải có chiếc áo
khoác (hình thức) dân tộc. Trong nhiều tác phẩm của Mao Trạch Đông đã dựng lên
khuôn mẫu khai sáng văn phong cho đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc về phương
diện mặc chiếc áo khoác dân tộc cho chủ nghĩa Marx–Lenin. Những tác phẩm này
không những khiến chủ nghĩa Marx hóa đổi văn hóa Trung Quốc mà còn tạo ra một
thể văn thời đại mới, trở thành phạm văn của chủ nghĩa Marx khoác áo văn hóa
Trung Quốc.
Thái độ của đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc đối với việc áp
dụng Marxist-hóa văn hóa truyền thống đã chứng tỏ tinh thần của đảng viên đảng
Cộng sản. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tập hợp tính cách mạng và tính chuyên chế
của chủ nghĩa Marx lại, đối với văn hóa truyền thống cũng nỗ lực thống nhất với
tính cách mạng và tính chuyên chế. Mao Trạch Đông chỉ ra: đối với truyền thống
lịch sử Trung Quốc, “chúng ta phải có sự kế thừa nhưng mục đích vẫn là vì đại
chúng nhân dân.” Đối với hình thức văn hóa trong thời đại quá khứ “chúng ta
cũng không từ chối lợi dụng, song những hình thức cũ đó khi rơi vào tay chúng
ta thì phải cải tạo, thêm nội dung mới, tức là biến thành một thứ cách mạng để
phục vụ cho nhân dân.” Vì vậy chính xác là ông đề ra nguyên tắc “cổ vi kim dụng”
(lấy cái xưa dùng cho việc nay).
“Cổ vi kim dụng” là để làm phồn vinh văn hóa Xã hội chủ nghĩa,
xây dựng khu vườn tinh thần tính cách mạng và tính chuyên chế của Trung Cộng.
Đó là một loại chủ nghĩa vị lợi cũng giống hệt như thuyết Con mèo (Miêu luận) của
Đặng Tiểu Bình, vì cái nó yêu cầu không phải là yếu tố chân lý trong văn hóa mà
là nó có lợi cho sự duy trì nền cai trị của Trung Cộng hay không, có lợi thì dù
có sai cũng cho qua luôn, bất lợi thì dù có đúng cũng phải đập bỏ.
Trong cuộc đời của Mao Trạch Đông từ thuở thanh niên cho đến
khi tạ thế đều nghiên cứu lịch sử Trung Quốc. Sự nghiên cứu này là để tìm hiểu
những đặc điểm của Trung Quốc, dùng chủ nghĩa Marx hóa đổi văn hóa Trung Quốc.
Năm 1938, trong bài báo cáo Vai trò của đảng
Cộng sản Trung Quốc trong cuộc chiến tranh dân tộc của Mao Trạch Đông viết
vào Đại hội Trung ương toàn quốc đợt VI lần 6 nói: “Để chủ nghĩa Marx được cụ
thể hóa tại Trung Quốc khiến cho nó trong mỗi một biểu hiện đều mang theo đặc
tính Trung Quốc cần có, tức là ứng dụng nó theo đặc điểm của Trung Quốc đã trở
thành vấn đề mà toàn đảng phải cần kíp tìm hiểu và cần kíp giải quyết.” Với mục
đích như vậy, ông lại nói “đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc cần phải nghiên cứu
lịch sử Trung Quốc, phải tiến hành tổng kết khoa học từ Khổng Phu Tử đến Tôn
Trung Sơn, kế thừa một bộ di sản quý giá. Người nay đọc sách xưa là để tìm
gương lịch sử, tìm ra những điều hữu dụng cho chúng ta.”
Ngày 17-8-1958, Cục chính trị Bắc Đái Hà tổ chức phiên họp mở rộng,
phiên họp lần này thông qua quyết định triển khai phong trào công xã hóa nhân
dân nông thôn. Ngày 10-12-1958, Mao Trạch Đông cho in Tam Quốc chí: Ngụy thư – Trương Lỗ truyện, phát cho các đại biểu
tham gia phiên họp Vũ Xương. Mao Trạch Đông có lời phê hai lần rất dài trong Trương Lỗ truyện, một lần viết vào ngày
7-12-1958, một lần là ngày 10-12 cùng năm. Trong hai lần viết lời phê đó ông đều
phân tích sự phát triển và vận động của lịch sử, ông viết trong lời phê rằng:
“Nước ta từ cuối đời Hán cho đến nay đã hơn một ngàn năm, tình huống cách xa
như trời với đất. Song nhìn vào mấy điểm ví như sự đói nghèo của bần nông và hạ
trung nông thì vẫn có vài điểm tương tự.”
Lại cho rằng: từ cuối đời Hán đến nay “có một điểm giống nhau, đó là ước mơ
bình đẳng, tự do, thoát khỏi nghèo khó và đủ ăn đủ mặc của quảng đại tầng lớp
nông dân cực kỳ nghèo khổ.”
Còn có: từ cuối đời Hán đến nay “trong thời gian khoảng 1,700
năm, sự sản xuất và tiêu dùng của bần nông, hạ trung nông với tâm tình của người
ta vẫn đại thể giống nhau, đều là nghèo đói xác xơ, điều khác nhau là sức sản
xuất đến nay đã tiến bộ hơn nhiều.” Ông muốn thông qua các cuộc khởi nghĩa nông
dân trong lịch sử, nói cụ thể, những biện pháp được chính quyền Trương Lỗ áp dụng
khi thành lập vào đời Hán đã chứng tỏ cho tính hợp lý và tính tất yếu của phong
trào công xã hóa nhân dân ở Trung Quốc đại lục năm 1958. Lời phê của ông trong Trương Lỗ truyện có viết: “Phong trào
công xã nhân dân hiện nay có nguồn gốc trong lịch sử nước ta.” Lại viết với tiền
lệ trong Trương Lỗ truyện rằng:
“Phong trào chữa bệnh quần chúng được nói đến trong đó có vị giống như việc chữa
bệnh miễn phí trong công xã nhân dân chúng ta, song thời đó chỉ là thần đạo,
cũng được, thời đó chỉ biết dùng thần đạo. Các quán ăn trên đường vào ăn cơm
không mất tiền, rất có ý nghĩa, nó tạo tiền đề cho nhà ăn công cộng công xã
nhân dân của chúng ta.” Có thể nhìn thấy những điều được kể trong Trương Lỗ truyện chỉ là Xã hội chủ nghĩa
không tưởng nông nghiệp trong lịch sử, phản ánh nỗi niềm của người xưa đối với
cuộc sống tốt đẹp trong tương lai, nhưng họ đã không tìm được con đường đi lên
“đại đồng.” Dùng những cách thức sai lầm bất thông trong lịch sử để minh họa
cho những cách thức sai lầm trong hiện tại quả thật là cổ vi kim dụng, nhưng
không phải là vì họ giống với mình, lịch sử sau này đã chứng minh ý tưởng của
Mao cũng là Utopia (cõi mộng tưởng – ND).
Mao Trạch Đông phân tích văn hóa truyền thống không phải theo
kiểu chú thích văn tự trong cổ tịch mà là tiến hành cải tạo và phát triển
chúng, vận dụng vào cuộc sống thực tế. Trong lá thư gửi cho Trương Văn Thiên,
ông có viết: “Quá do bất cập là hai
phương pháp đấu tranh trong mặt trận, là một trong những phương pháp tư tưởng
quan trọng. Tất cả triết học, tất cả tư tưởng, tất cả đời sống thường nhật đều
phải đấu tranh trong hai mặt trận để khẳng định chất ổn định tương đối giữa sự
vật và khái niệm.” Lại nói: “Quá tức
là những điều thuộc ‘tả,’ bất cập tức
là những điều thuộc ‘hữu.’ Theo quan điểm của chúng ta bây giờ, quá do bất cập là chỉ cho sự vật nhất định
trong sự vận động của thời gian và không gian, khi nó phát triển đến một trạng
thái nhất định thì phải tìm ra và xác định chất nhất định trong mối quan hệ với
lượng, tức là ‘trung’ hoặc ‘trung dung,’ hoặc ‘thời trung.’ Nói sự vật này đã
không phải từ trạng thái này tiến đến trạng thái khác, đó đã là một chất khác,
thì đã là ‘quá’ hoặc ‘tả’ khuynh rồi. Nói sự vật này vẫn ngừng lại trong trạng
thái như cũ và không phát triển, đó là sự vật cũ, là sự đình trệ khái niệm, là
thủ cựu ngoan cố, là ‘hữu’ khuynh, là ‘bất cập.’” Ví dụ này cho thấy Mao Trạch
Đông vận dụng phép biện chứng duy vật để giải phẫu văn hóa truyền thống, phát
hiện tính hữu dụng đối với cách mạng của nó. Với văn hóa truyền thống Trung Quốc,
Mao Trạch Đông áp dụng thái độ Marxist-hóa. Một mặt là nhà cách mạng Xã hội chủ
nghĩa, Mao Trạch Đông chủ trương phải phá bỏ văn hóa cũ phong kiến, kiến lập
văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa. Mặt khác ông cho rằng phải kế thừa di sản văn hóa
quý giá từ Khổng Phu Tử đến Tôn Trung Sơn trở đi để đóng gói chủ nghĩa
Marx–Lenin, làm cho văn hóa mới Xã hội chủ nghĩa của Trung Cộng vừa có tinh thần
chủ nghĩa Marx–Lenin vừa có áo khoác văn hóa Trung Quốc, theo lời Mao Trạch
Đông nói thì đó là hình thức dân tộc.
Nói theo văn hóa, về bản chất chủ nghĩa Marx là một hình thái
văn hóa hiện đại chống chủ nghĩa Tư bản, còn văn hóa truyền thống Trung Quốc với
đại biểu là Nho học thuộc về hình thái văn hóa tiền-Tư bản chủ nghĩa. Cả hai vốn
đã đối lập căn bản về luân lý đạo đức, điểm giống nhau là tư tưởng chính trị
theo chủ nghĩa chuyên chế. Chính vì như vậy, những người theo chủ nghĩa Marx
ban đầu ở Trung Quốc phần lớn mang khuynh hướng phản truyền thống mạnh mẽ, sau
khi Mao Trạch Đông trở thành người theo chủ nghĩa Marx ông đã bắt đầu dốc sức mặc
chiếc áo khoác văn hóa truyền thống Trung Quốc lên chủ nghĩa Marx. Trong văn
hóa truyền thống Trung Quốc có một điểm chung với chủ nghĩa Marx, ví như những
tư tưởng về phương pháp biện chứng, chủ nghĩa chuyên chế v.v. giữa chúng. Chủ
nghĩa Marx muốn được truyền bá và đâm chồi, nở hoa, kết quả thuận lợi ở Trung
Quốc đại lục thì phải mặc nhờ chiếc áo khoác văn hóa dân tộc Trung Hoa để tuyên
truyền, giải thích chủ nghĩa Marx. Đảng Cộng sản Trung Quốc từ khi thành lập đầu
thế kỷ 20 đến nay có nhiều nhà lý luận chủ nghĩa Marx như Lý Đại Chiêu, Mao Trạch
Đông, Cù Thu Bạch, Lý Đạt, Ngải Tư Kỳ… trong quá trình dẫn chủ nghĩa Marx vào
Trung Quốc đã tìm tòi phát hiện, thông diễn cắt tỉa, nỗ lực khai quật những nội
dung tương thông tương dung tương bổ giữa văn hóa truyền thống Trung Quốc với
chủ nghĩa Marx, dùng nó để giải thích những lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Marx. Tư tưởng Trang Tử mặc dù có những phương diện tiêu cực
như chủ nghĩa Tương đối, chủ nghĩa Hư vô nhưng cũng hàm chứa không ít những
nhân tố phép biện chứng chất phác. Mao Trạch Đông thường vay mượn phạm vi phép
biện chứng Trang Tử để nói về triết học chủ nghĩa Marx. Ví dụ, trong Lời phê sách Đọc ‘Tuyển tập Triết học’ của Ngải Tư Kỳ, Mao Trạch Đông đã dẫn
câu “kỳ tác thủy dã giản, kỳ tương tất dã tất cự” (lúc mới bắt đầu bao giờ cũng
đơn giản, khi gần kết thúc thì mới trở nên to ra) để minh họa cho sự thay đổi
phát triển của sự vật. Lại tỉ như năm 1967, Mao Trạch Đông khi bàn đến tính khả
phân vô hạn vật chất với một số người làm công tác triết học cũng mượn câu “nhất
xích chi chủy, nhật thủ kỳ bán, vạn thế bất kiệt” (cây gậy một thước mỗi ngày bẻ
nó thành một nửa, muôn đời cũng không bẻ hết) của Trang Tử. Nhằm thuyết minh
phép biện chứng động tĩnh của chủ nghĩa Marx, trong Đại hội toàn quốc lần thứ 2
Ủy ban Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đợt VIII khi Mao Trạch Đông phát biểu
đã nói: “Chương Thiên hạ trong sách Trang
Tử nói: ‘Phi điểu chi cảnh, vị thường động dã.’ (Bóng con chim bay chưa bao
giờ động) Trên thế giới cũng có một phép biện chứng như vậy: vừa động vừa bất động…
động là cái tuyệt đối, tĩnh là cái tạm thời và có điều kiện.”
Trên thực tế, trong các luận trước, thư tín, bài giảng, lời phê…
của Mao Trạch Đông có thể thấy những tình tiết dùng ngôn ngữ, điển cố, tư tưởng,
thần thoại vốn có của Trung Quốc để giải thích chủ nghĩa Marx ở khắp nơi.
Đối với thuyết Con mèo về văn hóa Trung Quốc, Mao Trạch Đông
chắc chắn cũng cảm thấy nếu khả dụng thì dùng, nếu không khả dụng thì đạp dưới
chân và thậm chí là hủy diệt.
Tỉ như trong bài Sự
thành lập và tiến hành Kiện học hội trong thời kỳ Ngũ tứ, Mao Trạch Đông tập
trung phê bình chủ trương “Trung thể Tây dụng” (bản thể Trung Quốc được ứng dụng
theo Tây phương), cho rằng nó là một “tư tưởng tự đại,” “tư tưởng rỗng tuếch.”
(1938)
Những năm tháng tại Diên An, Mao Trạch Đông cùng Lương Sấu
Minh tựu trung đồng tranh luận đối mặt với những vấn đề như tính chất văn hóa
xã hội truyền thống, sự khác biệt và mâu thuẫn giữa văn hóa Trung–Tây cũng như
đường lối cơ bản để cải tạo Trung Quốc… Ý kiến phê bình cụ thể của ông thể hiện
trong lời phê khi đọc Lý luận Xây dựng
Hương thôn. Trong đó một quan điểm quan trọng là ông không đồng ý sự đào tạo
“đều rất cao” về văn hóa Trung–Tây mà Lương tiên sinh nói, cho rằng sự xung đột
giữa văn hóa Trung–Tây từ cận đại đến nay và sự thất bại của Trung Quốc nguyên
nhân “không phải đều cao, mà là xã hội Tư bản chủ nghĩa cao hơn xã hội phong kiến
nên sự đụng độ của hai bên khiến cái sau thất bại, kết cục đã hạ màn.” Biện
pháp giải quyết nguy cơ của Trung Quốc không phải là cải lương văn hóa mà chỉ
có cái cao hơn sẽ thắng. Cái cao hơn ở đây tức là chủ nghĩa Marx. Tháng 1-1940,
Mao Trạch Đông lại nhấn mạnh rằng ở Trung Quốc hiện giờ có văn hóa chủ nghĩa Đế
quốc và văn hóa bán-phong kiến, không đả đảo hai thứ phản động này đi thì không
thể kiến lập lên văn hóa mới gì được, “không phá thì không lập, không tắc thì
chẳng trôi, không dừng thì chẳng chạy, cuộc đấu tranh giữa chúng là cuộc đấu
tranh sinh tử.”
Mọi người đều biết, bộ giàn chủ thể văn hóa Trung Hoa là ba
ngôi một thể Nho–Thích–Đạo, trong đó văn hóa Nho gia là chủ cán của văn hóa
truyền thống Trung Quốc. Năm 1964, Mao Trạch Đông đã từng viết lời phê rằng “Khổng
môn đầy mâu thuẫn,” Mao Trạch Đông từng nêu nhiều cách nhìn khác nhau đối với
Nho học và đưa ra những phê bình nghiêm khắc. Bởi ông là nhà cách mạng Xã hội
chủ nghĩa, là nhà độc tài lãnh đạo xây dựng Xã hội chủ nghĩa, tất nhiên phải khởi
xướng việc bãi bỏ quan niệm văn hóa truyền thống, phá dẹp truyền thống tư tưởng
cũ. Mà Nho học do Khổng Tử sáng lập từ sau khi được độc tôn vào đời Hán, suốt
hai ngàn năm nay luôn là để phục vụ giai cấp thống trị, muốn xây dựng văn hóa mới
Xã hội chủ nghĩa thì không thể không phê Khổng và phản Khổng. Nhìn chung cuộc đời
của Mao Trạch Đông từ tuổi trẻ cho đến lúc cuối đời ông thể hiện là phủ định
văn hóa Nho gia với đại diện là Khổng Tử. Thái độ của Mao Trạch Đông đối với
văn hóa truyền thống Trung Quốc là tôn vinh hay bãi bỏ là tùy thuộc chủ
nghĩa Marx.
Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông phát động không chỉ là trận
nạn kiếp về kinh tế chính trị mà còn là trận hủy diệt của văn hóa truyền thống
Trung Quốc. Trận nạn kiếp này đã khiến cho luân lý đạo đức và quy phạm hành vi mà
dân tộc Trung Hoa vừa tự hào vừa cho là vinh quang trở thành truyện nghìn lẻ một
đêm xa xăm diệu vợi, những đức hạnh nào là lễ nghĩa chi bang, ôn nhu đôn hậu,
nhân nghĩa đạo đức, văn bì với chất, ôn lương cung kiệm nhượng, phong độ quân tử,
nào là “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” (điều mình không thích thì đừng làm với
người ta) v.v. đều trở thành truyện thần thoại đẹp đẽ.
Những phong trào xã hội và chuẩn mực đạo đức trong Cách mạng
Văn hóa “đọc sách của Mao chủ tịch, nghe lời của Mao chủ tịch, làm chiến sĩ tốt
của Mao chủ tịch,” “một lòng vì việc công,” “công chính quên tư,” “đấu tranh
gay gắt với một thoáng ý niệm về tư,”… tất cả chúng đều đạt đến đỉnh cao trong
Cách mạng Văn hóa.
Mao Trạch Đông là một nhà cách mạng theo chủ nghĩa Marx, tư tưởng
và tâm chí của ông đều có tính
cách mạng và tính chuyên chính, ông luôn luôn muốn nhắm đến việc tạo ra một thế
giới Cộng sản chủ nghĩa mới mẻ. Ông là một con người rất đại biểu từ thời cận đại
đến nay trong việc phản truyền thống. Ở trong đó Mao Trạch Đông tuyệt không chỉ
là phát tiết sự căm hờn hư hão mà những điều Mao nhắm đến còn mang ý vị Cộng sản
chủ nghĩa nguyên thủy, chủ nghĩa này từng xuất hiện trong thời kỳ ở Diên An,
đây cũng là một trong những pháp bảo để đảng Cộng sản Trung Quốc giành được thắng
lợi. Mà trong xã hội Xã hội chủ nghĩa, sau khi tầng lớp quan liêu hình thành tất
nhiên rồi sẽ thành giấc mơ phá hoại, sự thật cũng là như thế. Mao Trạch Đông
không hề dẹp bỏ tham nhũng và đặc quyền bằng chế độ và pháp luật mà chỉ muốn dựa
vào quyền uy của mình và lợi dụng quyền uy đó phát động phong trào quần chúng.
Những quy luật bằng cảm hứng và ảo tưởng thi nhân của ông hoặc nói là do ông tạo
ra hay tưởng tượng ra để đả phá và thay thế những quy luật trong tiến trình lịch
sử, ông đã đưa những ảo tưởng (tràn đầy cảm hứng) của chính mình thách thức với
những quy luật từ lịch sử để ứng chiến và chống cự. Những điều mà Mao Trạch
Đông đã hy vọng, ảo tưởng, khát cầu hay là thế giới lý tưởng của ông ta toàn là
mang sắc thái Utopia.
Trong sự giày vò nội bộ văn hóa truyền thống, chân–thiện–mỹ đồng
thời bị nhấn chìm và bị trộn lẫn lại với giả–ác–xú. Sự nghịch lý giữa động cơ với
kết quả hành vi cũng có lẽ là bi kịch của Mao và cũng là bi kịch của những Hồng
vệ binh chân thành trở thành những kẻ bạo động đánh cướp phá. Trong đó mọi nguyện
vọng chân thành đều đi tới phản diện và sa lầy thành sự dối trá và lường gạt.
Đó là một vòng xoáy, một vũng lầy mà dĩ nhiên nếu bạn rơi vào đó thì phải cuốn
theo nó, tất nhiên khắp mặt mũi sẽ dính đầy bùn đất. Mao Trạch Đông đã trở
thành vị thần nhân cách hóa tối cao trong lòng mọi người – đại diện có thẩm quyền
của đạo đức tối cao. Trước mặt ông, người ta
hoặc là vui vẻ tự nguyện, hoặc bị ép buộc phải rúm người vì sợ hãi. Vì thuở đó
có nghe lời Mao chủ tịch hay không, có thực hiện chỉ thị của Mao chủ tịch không
đã trở thành tiêu chuẩn để phán xét phải trái, thật giả, tốt xấu và thiện ác, mọi
người đều chấp nhận sự kiểm định này, từ người dân bình thường cho đến chủ tịch
quốc gia Lưu Thiếu Kỳ không một ai ngoại lệ.
Đại cách mạng Văn hóa là chỉ
cho hoạt động chính trị do Mao Trạch Đông phát động và lãnh đạo từ tháng 5-1966
đến tháng 10-1976, nó có ba “thành tựu” lớn:
(1) Do chính phủ xúi giục dân
chúng “võ đấu” khiến đạo đức của dân chúng bại hoại;
(2) Đại cách mạng Văn hóa còn
có một công trạng vĩ đại là muốn đấu ai thì đấu, muốn đánh ai thì đánh, vô pháp
vô thiên;
(3) Việc phá “tứ cựu” (bốn thứ
cũ kỹ) đã gây hủy hoại hàng loạt văn vật cổ tích.
Tỉ như thời điểm giao mùa thu
đông vào năm 1966, một trong bốn đại lãnh tụ Hồng vệ binh ở thủ đô là Đàm Hậu
Lan sau khi dẫn đoàn chiến đấu Tỉnh Cương sơn Hồng vệ binh Đại Mao Trạch Đông
tư tưởng Bắc sư làm lễ tuyên thệ tại quảng trường Thiên An Môn đã tiến từ Bắc
Kinh xuống phía nam tàn sát Khúc Phụ là quê hương đức Khổng Tử, Khổng gia điếm
phải tạo phản, đám người Đàm Hậu Lan liên kết với Hồng vệ binh địa phương phát
động nông dân mở đại hội thảo Khổng với 100.000 người, rải tờ Tuyên ngôn thảo
Khổng và Thư kháng nghị gửi Quốc vụ viện... đi khắp cả nước, sau đó
bắt đầu diễu hành tiến quân về Khổng Lâm đốt tượng Khổng Tử và san bằng mộ Khổng
Tử... Sự kiện này về sau được gọi là sự kiện “thảo phạt Khổng Tử” xảy ra tại
chính làng quê của Khổng Tử.
Sự phê Khổng trong Cách mạng
Văn hóa cũng đã vạch trần một cách không thương tiếc đối với đạo đức phong kiến
trung–hiếu–nhân–nghĩa. Tuy nhiên Cách mạng Văn hóa đã để lại ảnh hưởng cực kỳ tồi
tệ: chính nó đã làm mạnh lên hạt nhân chuyên chế chưa từng có tiền lệ trong lịch
sử khiến cho tư tưởng độc tài được khoác lên danh từ mới và được sử dụng công
nhiên, cho rằng lòng trung thành tột bậc đối với lãnh vụ vĩ đại chính là phải
quyết liệt với chế độ cũ và tư tưởng cũ. Ngu dốt, nhiệt tình, phá hoại và rối
ren là âm điệu chính của dàn nhạc Cách mạng Văn hóa.
Cặn bã cốt lõi nhất trong
thuyết chuyên chính của chủ nghĩa Marx–Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông đó
chính là phải phục tùng tuyệt đối với chuyên chế, quỳ lạy trước quyền uy duy nhất,
thống nhất tuyệt đối về tư tưởng toàn dân. Vì có thứ cặn bã cốt lõi này mới khiến
văn hóa chúng ta bị nhiễm độc hoàn toàn gây sát thương cho sự tôn nghiêm cá thể
và tự do vốn là quyền của lẽ trời đất, để rồi thuận theo và ca ngợi đức hạnh
làm áp đảo nhân tính của nhà cầm quyền tối cao. Bất kể trò chơi chữ nghĩa đó có
hay ho thế nào thì cuối cùng nó vẫn chỉ là đôi giày gấm tinh xảo tuyệt đẹp
nhưng bên trong chiếc giày thì tồi tàn mốc meo – nó dùng để bó chân khiến chân
người mang giày trở nên quái dị. Vì hình dạng thực đáng sợ như thế nên cũng thật
là tốn công phí sức cho những ai đã dành thời gian chế xuất đôi giày ấy, cho rằng
chỉ cần giày đẹp là đủ, cái bên trong dĩ nhiên sẽ đẹp như chiếc giày bên ngoài.
Ta càng có thể thấy cuộc Đại
cách mạng Văn hóa là trận đại nạn diệt vong của nền văn hóa Trung Quốc. Trong
những năm tháng đen tối ấy phần tử tri thức đành co rút lại không dám nói thừa
một câu cũng không dám viết bậy một chữ, còn khủng khiếp hơn cả thời đại đế chế.
Bất luận là khuynh hướng tự do chủ nghĩa hay là khuynh hướng bảo thủ chủ nghĩa,
thậm chí là những phần tử tri thức đã chấp nhận chủ nghĩa Marx trong bối cảnh mới,
ngay cả phần tử tri thức đã kinh qua trưởng thành trong thời kỳ Trường chinh và
ở Diên An, những nhà lý luận của đảng Cộng sản trong thời chiến dường như toàn
bộ đều đã bị đả kích với tầm hủy diệt, nặng thì chết rục xương, nhẹ thì ngồi
phòng ban đày đi lao động cải tạo. Đại cách mạng Văn hóa cứ càng đi sâu vào thì
bức hại chính trị cũng ngày càng tàn khốc hơn, cuộc đấu đá trong nội bộ đảng ai
nhìn cũng thấy. Kết luận cuối cùng là ngoại trừ Mao Trạch Đông ra, hầu hết các
đồng chí của ông đều là bọn phản động. Chủ nghĩa Marx, tư tưởng Mao Trạch Đông
được tuyên bố là tư tưởng đánh đâu thắng đó. Từ quá trình này chúng ta thấy rằng
Mao cũng giống hệt như hoàng đế của các triều đại thích duy ngã độc tôn, nói một
không hai, tuyệt đối bất dung với những ý kiến khác, sát hại tự do ngôn luận, tự
do tư tưởng không mảy may lưu tình. Về phương diện này thì “công lao vĩ đại” của
Mao không thua một ông hoàng đế nào đâu.
Đại cách mạng Văn hóa không
phải nhằm mục đích dẹp bỏ những tệ đoan của văn hóa cũ và đề xướng một nền văn
hóa mới, mà là biến chủ nghĩa Marx thành một danh từ mới mẻ hòng tẩy não nhân
dân, khôi phục và làm mạnh sự đoàn kết độc tài của nhân dân, từ đó biến ước muốn
của ông ta được chính nghĩa và vĩ đại nhờ có nhân dân toàn quốc đồng thanh hoan
hô. Mấy trăm triệu con người chỉ cần có tư tưởng của một người là đủ rồi, chỉ cần
có một cuốn “sách răn dạy” là được, phải nghe lời Bác, tuân theo chỉ thị của
Bác, làm chiến sĩ tốt của Bác, Bác sẽ nắm tay đưa chúng ta tiến lên, người
Trung Quốc đều trở thành ngu dân, dốt nát, còn những kẻ dã tâm thì lợi dụng sự
ngu muội vô tri của người dân để muốn gì được nấy.
Đại cách mạng Văn hóa đã dằng
xé thuyết nhân tính và nhân tình của giai cấp tư sản. Sự thuần khiết nhất trên
thế giới là cảm tình giai cấp vô sản, là tính Đảng. Đối với những kẻ thù giai cấp:
phong kiến, tư bản, tu sĩ, địa chủ, phú hộ, phản động, bất hảo, cánh hữu... đều
phải đấu tranh tàn khốc và đả kích vô tình, “phải tàn khốc và vô tình như cơn
gió thu quét sạch lá rơi,” tình thân còn chẳng có huống hồ kẻ làm cách mạng còn
nói đến tư tình nhi nữ sao?
Kẻ làm cách mạng chỉ biết đến
ân tình của đảng, ân tình của lãnh tụ, còn tất cả những thứ khác đều là những
thứ phản động mục ruỗng, phải triệt để cách đứt cái mạng nó đi. Đấu tranh giai
cấp thì phải rao giảng đấu tranh suốt từng ngày và thậm chí từng năm một. Đấu với
người vui sướng khôn cùng, một nửa tình cảm nhân tính cũng không có, người
Trung Quốc khi đó đã bị cải tạo đến mức bà con không nhận mặt chừ đừng nói đến
tình yêu (ít nhất là không dám nói công khai lúc ấy), lãnh đạm vô tình, tàn ác
hung hãn, loại người không bằng cả cầm thú.
Trung Quốc vốn là một đất nước
nói về đạo đức nhiều nhất, cái mà tư tưởng Nho gia chiếm vai trò thống trị suốt
mấy ngàn năm qua nhấn mạnh chính là nhân nghĩa đạo đức, đến thời Đại cách mạng
Văn hóa thì đạo đức truyền thống bị phê phán triệt để. Trung Quốc không còn quy
phạm đạo đức nữa, những gì còn lại chỉ là triết học đấu tranh, tính giai cấp,
nguyên tắc tính Đảng. “Sự thô bỉ trở thành giấy thông hành của kẻ thô bỉ, sự
cao quý trở thành bia mộ của người cao quý.” Đến nay thì còn đâu thành tín liêm
sỉ, còn đâu chính nghĩa lễ nhượng, tất cả đều đã bị quỷ tha ma bắt cả rồi,
Trung Quốc từ đó tiến vào một thời đại mới gọi là thời đại vô liêm sỉ, lại thêm
“thuyết Con mèo” của Đặng Tiểu Bình thịnh hành chuyển từ đấu tranh giai cấp
sang tranh giành lợi ích, mưu tính duy lợi, lục đục đánh nhau, tham ô hủ bại,
hãm hại lừa đảo, cướp của giết người, vàng trắng đen thịnh hành không từ một thủ
đoạn, không điều ác nào không làm. Đạo đức nhân nghĩa của người Trung Quốc cũng
như quan niệm đạo đức phổ biến khắp nhân loại không còn đáng giá một xu nữa, thật
là không biết liêm sỉ đến ngày nào mới thôi.
Đối với mỗi một người Trung
Quốc, tên tuổi của Đặng Tiểu Bình có nghĩa là mở cửa đổi mới và kiến thiết hiện
đại hóa cho Trung Quốc đương đại, lý luận Đặng Tiểu Bình là sự Trung Quốc hóa
chủ nghĩa Marx. Chính sự chỉ đạo của lý luận Đặng Tiểu Bình mà mảnh đất Trung
Quốc cổ xưa đã diễn ra thay đổi: từ trật tự đấu tranh giai cấp đã chuyển hướng
sang trọng tâm là xây dựng kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch truyền thống đã
chuyển hướng kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa, từ xã hội đóng cửa và nửa đóng
cửa chuyển sang xã hội mở cửa. Lý luận Đặng Tiểu Bình là sản phẩm đã kết hợp giữa
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx với tình hình đất nước và đặc trưng
thời đại của Trung Quốc. Bản thân lập luận này gồm có ba lớp ý nghĩa: một là lý
luận Đặng Tiểu Bình về bản chất vẫn là chủ nghĩa Marx, là sự phát triển mới của
chủ nghĩa Marx; hai là lý luận Đặng Tiểu Bình là chủ nghĩa Marx được gieo trồng
tại Trung Quốc, nó kế thừa một phần văn hóa truyền thống Trung Quốc, thể hiện
những điểm đặc sắc mới mẻ của Trung Quốc; ba là lý luận Đặng Tiểu Bình còn thể
hiện một số đặc trưng thời đại. Nếu nói tư tưởng Mao Trạch Đông chỉ là Mao Trạch
Đông mặc chiếc khoác văn hóa Trung Quốc lên chủ nghĩa Marx–Lenin thôi, thì lý
luận Đặng Tiểu Bình là thực hiện Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marx, vừa thể hiện một
số nguyên lý cơ bản nào đó của chủ nghĩa Marx vừa bao hàm một phần tư tưởng văn
hóa của dân tộc Trung Hoa, nhưng chỉ là phần hết sức cặn bã, cho nên không thể
nói Đặng Tiểu Bình là kẻ truyền thừa trung thực của tinh hoa văn hóa Trung Quốc,
mà phải nói ông ta là kẻ truyền thừa những phần cặn bã của văn hóa Trung Quốc.
Cuối thập niên 80 và đầu thập
niên 90 thế kỷ 20, Đông Âu xảy ra biến cố dữ dội và Liên Xô giải thể, một loạt
sự biến trọng đại xảy đến cho chế độ Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, việc mở cửa đổi
mới đã mang lại thách thức nghiêm trọng đến chủ quyền và an toàn của đất nước. Đặng
Tiểu Bình đề ra phương châm chiến lược “thao quang dưỡng hối, lấy khéo che vụng,
lặng lẽ quan sát, kiềm chân đứng vững, bình tĩnh ứng phó, có cách hành động.” Nếu
Đặng Tiểu Bình không có nhận thức về văn hóa dân tộc thì không thể áp dụng câu
nói đầy cặn bã của dân tộc này là “thao quang dưỡng hối” để biểu đạt tư tưởng
chiến lược của ông. “Thao quang dưỡng hối” là một thành ngữ tiếng Hán với nghĩa
chính là che giấu tài năng, không để lộ ra ngoài, “thao quang” là che ánh sáng
của mình đi, “dưỡng hối” là đứng ở vị trí tương đối không nhìn thấy rõ.
“Thao quang dưỡng hối” còn mang
nghĩa khiêm tốn, là cam chịu để đối phương đứng ở vị trí quan trọng, còn mình lui
về vị trí thứ yếu. Do đó “thao quang dưỡng hối” là một đường lối để sinh tồn.
Cuối những năm 80 của thế kỷ trước, thành ngữ này đã được Đặng Tiểu Bình vin vào
để trình bày phương châm chiến lược ngoại giao của Trung Quốc dưới tình hình đương
thời. Điểm căn bản trong tư tưởng này là phải tìm kiếm thời cơ có lợi để tự phát
triển bản thân lớn mạnh; là phải xem xét thời thế, tranh thủ chủ động, độc lập
tự chủ; là phải luôn kiên trì ngọn cờ Xã hội chủ nghĩa, tăng cường niềm tin của
Trung Quốc đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Trong đó đầy rẫy sự gian ngoa và
thâm hiểm, cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ 20, Đông Âu xảy ra biến
cố dữ dội và Liên Xô giải thể, một loạt sự biến trọng đại xảy đến đã tuyên bố sự
phá sản của chế độ Xã hội chủ nghĩa và chuyên chính nhất đảng của chủ nghĩa
Marx, lúc này việc cần làm là phải thực hiện kinh tế thị trường và dân chủ hóa
về chính trị, nhưng ông ta đã vắt óc hết mực làm sao để cản trở bánh xe lăn tới
của lịch sử, không chịu tiến lên theo guồng lịch sử. Trong báo cáo quân lực
Trung Quốc suốt 6 năm từ năm 2003–2009, chính phủ Hoa Kỳ đều phiên dịch cụm từ “thao
quang dưỡng hối” là hide our capabilities and bide our time, nghĩa là
che giấu năng lực của chúng ta và chờ đợi thời cơ quật khởi. Sau này ở hải ngoại
còn có một số sách vở hoặc bài viết bằng tiếng Anh còn phiên dịch thêm thành
che giấu năng lực giả bộ nhỏ yếu, hoặc giả là ẩn giấu mục đích thật sự, hoặc giả
là che giấu dã tâm thu thập lực lượng. Lời lẽ ngầm này tức có nghĩa “thao quang
dưỡng hối” là Trung Quốc phải biết áp dụng thích nghi với tình hình trong và
ngoài riêng biệt, che giấu ý đồ thực sự của mình để đợi thời cơ chín muồi sẽ ra
tay.
Trong lịch sử có một điển cố
rất nổi tiếng về câu “thao quang dưỡng hối,” xuất xứ từ Tam Quốc diễn nghĩa.
Trong đó Hồi thứ 21: “Tào Tháo uống rượu luận anh hùng. Quan Công lừa mưu giết
Xa Trụ” chép:
“Về phần Huyền Ðức vẫn đề
phòng việc Tháo có thể mưu hại, nên thường ra vườn sau trồng rau, tự tay xới đất
tưới cây, làm kể giả ngây giả dại.
Quan, Trương thấy thế, hỏi rằng:
- Huynh trưởng sao không lưu
tâm tới việc lớn thiên hạ, lại đi làm cái việc nhỏ mọn của kẻ tầm thường thế
này?
Huyền Ðức chỉ trả lời vắn tắt:
- Việc này hai em không thể
biết được.
Quan, Trương không dám hỏi nữa.”
Một hôm Tào Tháo bèn bày tiệc
rượu để thăm dò dã tâm của Lưu Bị, hỏi Lưu Bị xem thiên hạ có bao nhiêu bậc anh
hùng, Lưu Bị liệt kê ra nào những tên tuổi anh hùng lừng lẫy gió mây đương thời
nhưng không nhắc gì đến mình. Tam Quốc diễn nghĩa chép:
“Tháo chẳng úp mở gì nữa, trỏ
tay sang Huyền Ðức, rồi lại trỏ về ngực mình mà nói thẳng ra rằng:
- Anh hùng trong thiên hạ
ngày nay, chỉ có Sứ quân với Tháo này thôi!
Huyền Ðức nghe qua, giật nẩy
mình lên! Ðôi đũa cầm trên tay bất giác rơi xuống đất!
May thay, lúc ấy trời sắp đổ
mưa, vừa vặn có tiếng sấm nổ ran!...
Huyền Ðức mới từ từ cúi xuống,
vừa lượm đôi đũa vừa nói rằng:
- Oai trời to thật! Vừa nghe
một tiếng, đã đến nỗi này...
Tháo cười hỏi:
- Trượng phu mà cũng sợ sấm
à?
Huyền Ðức nghiêm trang nói:
- Ðến Thánh nhân xưa kia,
nghe sấm rền gió thét cũng còn biến sắc mặt nữa là tôi!
Thế là Huyền Ðức kịp thời
thác ra chuyện sợ sấm mà che đậy được cái sợ thực của mình.
Tháo thì cho rằng Huyền Ðức
còn tầm thường, từ đó không nghi ngờ nữa.”
Quan hệ Trung–Nhật ngày càng
trở nên căng thẳng vì sự kiện đảo Điếu Ngư, đối với vấn đề đảo Điếu Ngư, phía
Trung Quốc dựa theo phương châm chiến lược ngoại giao “thao quang dưỡng hối” của
Đặng Tiểu Bình hồi những năm 80 của thế kỷ trước đề xuất nguyên tắc xử lý là gác
lại tranh luận để cùng nhau khai thác. Tuy nhiên thực tế là không chỉ tạo nên sự
thật rằng Nhật Bản đã kiểm soát được đảo Điếu Ngư, không giúp ích gì cho việc
tranh luận giải quyết chủ quyền, cũng không thể thúc đẩy được các quốc gia xung
quanh có vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc chịu thông cảm và mặc định,
ngược lại khiến các quốc gia này bằng hành động chiếm lĩnh trước và cho đó là sự
thật để kêu gọi chủ trương gác lại tranh luận để cùng nhau khai thác, dẫn đến
việc chủ trương này đã trở thành hiệp định quân tử khiến Trung Quốc tự mình trói
mình.
Đầu năm 1992, Đặng Tiểu Bình
khi đi thị sát Châu Hải đã nhắc đến vấn đề hệ thống trách nhiệm hộ gia đình rằng:
“Gia đình là một điều tốt, và tất cả đều mang tính tập thể sẽ mang lại những vấn
đề xã hội. Chẳng hạn như vấn đề chăm sóc người cao tuổi, hiện nay có nhiều người
cao tuổi hơn, không thể chỉ giao hết cho xã hội được. Có thể được tiêu hóa
trong gia đình.” “Văn hóa Trung Quốc từ thời Khổng Phu Tử luôn đề xướng nuôi dưỡng
người già. Khổng Tử nói tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Trong xã hội
phải chuộng tu thân, tu dưỡng, trì gia, vừa tu thân vừa trì gia mới có thể trị
quốc bình thiên hạ.” Ông cũng nhấn mạnh, 70 đến 80 triệu người tàn tật ở Trung
Quốc, bao nhiêu người cao tuổi trên cả nước, gia đình nào cũng có người cao tuổi,
những người này đều được chăm sóc, nuôi dưỡng từng gia đình. Chúng ta không thể
học hỏi từ nước ngoài để thực hiện phúc lợi xã hội. Thời xưa nói rằng gia đình
nuôi dưỡng người già đó là vì quốc gia trong thời đại đó là tư sản của vua chúa,
triều đình không chịu chi tiền để dưỡng lão đó là biểu hiện tự tư của vua chúa,
không chịu chi tiền dưỡng lão cho công dân lại đem lời người xưa ra để bào chữa
cho lập luận vô lý của mình. Ông nói rằng họ đã gặp khó khăn rất nhiều và dựa
vào thuế suất cao để đảm bảo phúc lợi của họ, nhưng do thuế cao, sự nhiệt tình
của họ đối với sản xuất trong nước đã bị ảnh hưởng. Cho nên không thể đi theo
con đường này, chỉ có câu “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Khổng
Tử mới có lý. Đây không phải là kế thừa phần cặn bã văn hóa thì là gì?
Ta còn có thể nhìn thấy ảnh hưởng
sâu sắc của văn hóa cặn bã truyền thống đối với ông qua sự kiện sử dụng từ “Tiểu
khang” làm mục tiêu chiến lược cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Trong văn hóa
truyền thống Trung Quốc, “Tiểu khang” là một mô hình xã hội lý tưởng được Nho
gia đề xuất chỉ xếp sau xã hội “Đại đồng.” Trên thực tế đó là chỉ cho sự thịnh
trị của các đời Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương, Thành Vương, Chu Công. Đặng Tiểu
Bình chú ý đến cơ sở quần chúng và ảnh hưởng văn hóa của “xã hội Tiểu khang.”
Thứ nhất ông đề xuất dùng “Tiểu khang chi gia” (gia đình khấm khá) để minh họa
mục tiêu chiến lược phát triển bước thứ hai của Trung Quốc đương đại sau khi giải
quyết vấn đề cơm no áo ấm. Biểu hiện này đột nhiên biến xã hội lý tưởng không
thể đạt được mà mọi người đã theo đuổi hàng nghìn năm thành mục tiêu theo từng
giai đoạn có thể đạt được của Trung Cộng. Sự thịnh trị của Vũ, Thang, Văn Vương,
Vũ Vương, Thành Vương, Chu Công có nghĩa là gì? Về chính trị là nền cai trị quân
chủ chuyên chế, về kinh tế là chế độ tỉnh điền, giai cấp và tầng lớp cơ bản thì
có quan liêu, chủ nô, nô lệ và bình dân. Xã hội hiện đại hóa trong suy nghĩ của
Đặng Tiểu Bình là như vậy, nếu không ông sẽ không đưa ra thuyết Con mèo, đề xuất
làm cho một số người trở nên giàu có trước, làm cho một số người trở nên giàu
có thông qua quyền lực công trong tay, làm cho một số người, bao gồm cả các
thành viên trong gia đình của ông, trở thành một tầng lớp quyền quý, và cố gắng
làm cho con cháu của đảng Cộng sản Trung Quốc được luân phiên nắm quyền mãi
mãi.
Đặng Tiểu Bình là kẻ truyền
thừa những phần cặn bã của văn hóa dân tộc, trong quá trình hình thành và xây dựng
lý luận về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, hắn đã coi truyền thống dân tộc
là thứ gắn liền với máu thịt của mình, đồng thời hấp thụ nhiều chất độc, để
sáng tạo lý luận của mình có một lớp áo khoác văn hóa Trung Quốc lộng lẫy.
Đặng Tiểu Bình đã kế thừa những
mặt cặn bã của văn hóa truyền thống như thế nào, mặc dù không có cuộc thảo luận
cụ thể và có hệ thống, nhưng một số ý kiến rõ ràng về nguyên tắc đã được đưa ra
từ các góc độ khác nhau. Nhìn từ thái độ cơ bản đối đãi với văn hóa truyền thống
và những thực hành cụ thể xử lý quan hệ giữa văn hóa truyền thống với hiện đại
hóa của Đặng Tiểu Bình, những đặc điểm cơ bản mà lý luận Đặng Tiểu Bình đã kế
thừa và phát triển văn hóa cặn bã của truyền thống Trung Quốc có thể khái quát
thành 6 chữ “kế thừa, chuyển biến, không siêu việt.”
Trong quá trình phát triển và
tiến hóa hàng nghìn năm, dân tộc Trung Hoa đã hình thành nên truyền thống dân tộc
huy hoàng và tinh thần dân tộc vĩ đại. Trong điều kiện đổi mới, mở cửa và phát
triển kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa, Đặng Tiểu Bình đã rất xem trọng kế
thừa và hoằng dương văn hóa truyền thống dân tộc, tuy nhiên, những gì ông ta kế
thừa là những phần cặn bã của văn hóa truyền thống. Ảnh hưởng tàn dư của chế độ
phong kiến trong văn hóa truyền thống có nhiều mặt, dưới góc độ đời sống chính
trị chủ yếu thể hiện ở ảnh hưởng còn sót lại của nền tông pháp phong kiến mang
đặc trưng của chế độ gia trưởng, Đặng Tiểu Bình đã kế thừa toàn bộ tàn dư phong
kiến ấy trong nền văn hóa truyền thống.
Đặng Tiểu Bình kế thừa phần cặn
bã văn hóa truyền thống của dân tộc Trung Hoa, đồng thời cũng tiến hành biến đổi
những phần tinh hoa trong văn hóa truyền thống. Sự thật, với việc phát huy hay
ruồng bỏ văn hóa truyền thống của Đặng Tiểu Bình chủ yếu đạt được thông qua việc
đổi mới các quan niệm. Chính thông qua việc đổi mới quan niệm, lý luận Đặng Tiểu
Bình đã thực hiện được một sự thay đổi lớn đối với những quan niệm truyền thống
tốt đẹp được lưu truyền hàng nghìn năm. Có rất nhiều nội dung được Đặng Tiểu Bình
cập nhật thay đổi từ các quan niệm văn hóa truyền thống, và chúng tôi không thể
giải thích một cách toàn diện và có hệ thống. Dưới đây chỉ là một số giải thích
từ khía cạnh xử lý mối quan hệ giữa nghĩa và lợi. Quan niệm nghĩa và lợi trong
truyền thống Trung Quốc có những thành phần hợp lý của nó, như Khổng–Mạnh chủ
trương “kiến lợi tư nghĩa” (thấy điều lợi nghĩ đến điều nghĩa), “tiên nghĩa hậu
lợi” (công bằng trước, lợi nhuận sau), “bất nghĩa chi tài bất khả đắc” (tiền của
phi nghĩa không nên lấy). Trong điều kiện lịch sử mới thì Đặng Tiểu Bình đã
thay đổi hết quan niệm nghĩa và lợi truyền thống. Thuyết Con mèo của ông ta là
sự biểu hiện tập trung nhất, bất chấp thủ đoạn kiếm tiền dù nghĩa hay bất nghĩa
đó mới là thành công.
Sự chuyển biến đối với văn hóa
truyền thống của Đặng Tiểu Bình còn có thể nêu ra rất nhiều ví dụ, như lợi ích
cá thể với lợi ích tập thể, chủ nghĩa cấm dục với chủ nghĩa hạnh phúc, chủ nghĩa
dân bản với dân chủ nhân dân, đạo đức cao nhất với tu thân dưỡng tính v.v. Có
thể nói, trong điều kiện lịch sử mới, lý luận Đặng Tiểu Bình đã hấp thu những
phần cặn bã trong văn hóa Trung Hoa, đã vậy còn chuyển biến những tinh thần
mang tính vĩnh hằng lịch sử trong văn hóa Trung Quốc.
Với sự tiến bộ của hiện đại
hóa, một số giá trị truyền thống vốn có ngày càng trở nên đối đầu sâu sắc và
không phù hợp với hiện đại hóa. Trung Quốc đương đại, đang trên con đường hiện
đại hóa, đang phải đối mặt với vấn đề làm thế nào để thích ứng các quan niệm
truyền thống với hiện đại hóa. Trên thực tế, quá trình cải cách, mở cửa và hiện
đại hóa của Trung Quốc là một quá trình không ngừng giải phóng tư tưởng và cập
nhật các khái niệm. Kể từ khi mở cửa đổi mới, nhận thức của người Trung Quốc đã
và đang tiếp tục có những thay đổi sâu sắc. Quan niệm tiểu nông truyền thống
đang được thay thế bằng quan niệm thị trường hiện đại, quan niệm tông pháp truyền
thống đang được thay thế bằng quan niệm hiện đại về dân chủ và pháp trị, tình cảm
nhớ nhà truyền thống đang được thay thế bằng các quan niệm hiện đại về tính cởi
mở, ý thức nô lệ truyền thống đang được thay thế bằng ý thức chủ thể được kích
hoạt, quan niệm mông muội truyền thống đang được thay thế bằng các khái niệm
khoa học mới nổi, v.v. Trong quá trình chuyển đổi hiện đại hoặc siêu việt các
quan niệm truyền thống của Trung Quốc, người Trung Quốc bắt đầu hình thành ý thức
chủ thể, ý thức thị trường, ý thức tiêu dùng, ý thức hạnh phúc, ý thức pháp luật
và ý thức khoa học của riêng họ. Những ý thức này vang vọng và dung nạp lẫn
nhau, tạo thành một khung cảnh sống động của sự thay đổi lớn, sự phát triển lớn
và sự siêu việt lớn từ quan niệm truyền thống sang quan niệm hiện đại. Cho nên
vào thời điểm ngày 4-6-1989, nhân dân diễu hành trên quảng trường Thiên An Môn
yêu cầu tự do, dân chủ và pháp trị, Đặng Tiểu Bình vẫn kiên trì chủ nghĩa nhân
trị và chuyên chế chính trị trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì lý
luận chuyên chính của Marx–Lenin, tiến hành thảm sát học sinh sinh viên, không
chịu siêu việt lên những cặn bã của văn hóa truyền thống Trung Quốc và cặn bã của
văn hóa chủ nghĩa Marx.
Toàn cầu hóa là xu thế phát
triển của thế giới ngày nay, cơ hội và thách thức cùng tồn tại, không quốc gia
nào có thể thụ động né tránh và tách khỏi toàn cầu hóa vì tồn tại những thách
thức và rủi ro. Không có lối thoát nào để cô lập bản thân, một lựa chọn khôn
ngoan là thực hiện các biện pháp tích cực để chủ động rào đón cho sự xuất hiện
của toàn cầu hóa và hòa nhập vào dòng chảy của toàn cầu hóa. Vậy, “các biện
pháp tích cực” và “rào đón chủ động” là gì? Nghĩa là, chúng ta nên áp dụng
chính sách “hài hòa không khác biệt,” tích cực tham gia vào sự cạnh tranh và
phát triển toàn cầu mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình. “Hòa nhi bất đồng”
(hòa lẫn nhưng không giống) là một mệnh đề triết học do Khổng Tử đề xuất, ngài
nói: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa.” Sự phát triển của
lịch sử có tính liên tục, Trung Quốc ngày nay phát triển từ Trung Quốc ngày hôm
qua và ngày kia, dân tộc Trung Quốc có lịch sử lâu đời và người dân Trung Quốc
thường tự hào về điều này. Quá trình hiện đại hóa của bất kỳ quốc gia nào cũng không
thể trực tiếp ghép nối và di chuyển từ bên ngoài vào bên trong xã hội, mà phải
bắt nguồn từ chính trong lòng dân tộc đó. Vì vậy, sự phát triển của mỗi dân tộc
đều phải đối mặt với vấn đề kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc
mình. Điều này đặc biệt đúng đối với quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc, vì
vậy, việc kế thừa có phê phán và phát huy mạnh mẽ văn hóa truyền thống là xây dựng
ý nghĩa của quá trình hiện đại hóa Trung Quốc. Trung Quốc là một trong bốn nền
văn minh cổ đại trên thế giới, hiện nay các nền văn minh khác đã suy tàn ở các
mức độ khác nhau, và nền văn minh Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển sau năm
nghìn năm lịch sử phát triển rực rỡ, đây không thể không nói là một kỳ tích
trong lịch sử văn minh nhân loại, và chính nhân dân Trung Quốc vĩ đại đã làm
nên kỳ tích này. Ngày nay, sự kế thừa quan trọng của chúng ta đối với văn hóa
truyền thống là để tiếp tục tốt hơn điều kỳ diệu này. Nhưng đảng Cộng sản Trung
Quốc đã lấy chủ nghĩa Marx làm chỉ đạo, sự xâm nhập của chủ nghĩa Marx–Lenin về
cơ bản đã phá hoại truyền thống văn hóa tốt đẹp của Trung Quốc, các lãnh tụ của
đảng Cộng sản Trung Quốc bề ngoài là đang kế thừa văn hóa truyền thống Trung Quốc,
nhưng thực tế là đang phá hoại tinh hoa văn hóa truyền thống Trung Quốc, bọn họ
hoặc là đang trực tiếp phá hủy nền văn hóa truyền thống ưu tú, hoặc là kế thừa
những phần cặn bã của văn hóa Trung Quốc. Chúng ta phải làm gì bây giờ?
Nguyên tác: 郑酋午:他们都不是中华优秀传统文化的忠实传承者
viết ngày 19-10-2011
dịch thành ngày 6-12-2020,
tại Gò Vấp, học giả Nguyễn Thành Sang.
Tác giá viết bài này đầu tư công phu ghê á, cảm ơn vì đã dành thời gian để cung cấp kiến thức bổ ích ạ.
Trả lờiXóaCảm ơn bạn, bài hay vẫn còn nhiều lắm. Nếu bạn muốn thì có thể góp bài cho Blog.
Xóa