Chuyển đến nội dung chính

TRIỂN VỌNG KINH TẾ TOÀN CẦU TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19: MỘT THẾ GIỚI THAY ĐỔI

  

Một xa lộ cao tốc vắng vẻ ở Dubai trong đại dịch Coronavirus. Phía trên đường cao tốc, một tấm biển ghi "Giữ an toàn, ở nhà." ©Mo Azizi/Shutterstock

Đại dịch COVID-19 đang lây lan ở mức báo động, lây nhiễm cho hàng triệu người và khiến các hoạt động kinh tế gần như đình trệ khi các nước hạn chế nghiêm ngặt việc di chuyển của người dân để ngăn chặn sự lây lan của virus. Thiệt hại về kinh tế đã trở nên rõ ràng khi sức khỏe và thương vong ngày càng gia tăng, đây là cú sốc kinh tế lớn nhất mà thế giới phải trải qua trong nhiều thập kỷ qua.

Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu tháng 6/2020 đã mô tả triển vọng gần đây và ngắn hạn về tác động của đại dịch và những thiệt hại dài hạn mà nó gây ra đối với triển vọng tăng trưởng. Dựa trên tỷ trọng tỷ giá hối đoái thị trường, các dự báo cơ bản dự kiến GDP toàn cầu sẽ giảm 5,2% vào năm 2020, đây sẽ là cuộc suy thoái toàn cầu tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ, bất chấp những nỗ lực phi thường của các chính phủ để đối phó với suy thoái thông qua hỗ trợ chính sách tài khóa và tiền tệ. Về lâu dài, cuộc suy thoái nghiêm trọng do đại dịch này gây ra dự kiến sẽ dẫn đến giảm đầu tư, xói mòn tài nguyên con người do thất nghiệp và bỏ học, đồng thời phá vỡ các liên kết cung ứng và thương mại toàn cầu, để lại những vết sẹo lâu dài.

Cuộc khủng hoảng nhấn mạnh sự cần thiết phải hành động khẩn cấp để giảm thiểu hậu quả kinh tế và sức khỏe của đại dịch này, bảo vệ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương và đặt nền tảng cho sự phục hồi lâu dài. Đối với các nước thị trường mới nổi và các nước đang phát triển, điều cần thiết là phải củng cố hệ thống y tế công cộng, đối phó với những thách thức do phi chính thức đặt ra và thực hiện các cải cách để hỗ trợ tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững sau khi cuộc khủng hoảng y tế giảm bớt.

Thu nhập bình quân đầu người suy giảm trong lịch sử

Đại dịch dự kiến sẽ đẩy hầu hết các quốc gia trong suy thoái vào năm 2020. Kể từ năm 1870, thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia lớn nhất thế giới sẽ bị thu hẹp. Các nền kinh tế phát triển dự kiến sẽ giảm 7%. Sự yếu kém này sẽ ảnh hưởng đến triển vọng của các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, vốn được dự báo sẽ thu hẹp 2,5% để đối phó với dịch bệnh trong nước. Đây sẽ là hoạt động tồi tệ nhất của nền kinh tế trong ít nhất 60 năm.

"Cuộc khủng hoảng nhấn mạnh sự cần thiết phải hành động khẩn cấp để giảm thiểu tác động của đại dịch đối với sức khỏe và kinh tế, bảo vệ những người dễ bị tổn thương và đặt nền tảng cho sự phục hồi lâu dài."


Hầu hết các nước được dự báo sẽ đối mặt với suy thoái trong năm 2020

Tỷ trọng của các nền kinh tế suy thoái trong giai đoạn 1871-2021

 

Tỷ lệ các nền kinh tế có GDP bình quân đầu người bị thu hẹp hàng năm. Vùng bóng tối đề cập đến một cuộc suy thoái toàn cầu. Số liệu cho năm 2020-21 là dự báo.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới

Tăng trưởng của từng khu vực đã bị điều chỉnh giảm đáng kể. Tốc độ tăng trưởng của khu vực Đông Á và Thái Bình Dương chỉ đạt 0,5%. Nam Á sẽ giảm 2,7%, châu Phi cận Sahara sẽ giảm 2,8%, Trung Đông và Bắc Phi sẽ giảm 4,2%, châu Âu và Trung Á sẽ giảm 4,7%, và châu Mỹ Latinh sẽ giảm 7,2%. Những cuộc suy thoái này được cho là sẽ quét sạch những tiến bộ đạt được trong việc đạt được các mục tiêu phát triển trong những năm qua và đẩy hàng chục triệu người trở lại cảnh bần cùng.

Các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng bởi những cơn gió ngược kinh tế từ nhiều khía cạnh: áp lực từ hệ thống chăm sóc sức khỏe yếu kém, tổn thất trong thương mại và du lịch, giảm lượng kiều hối, suy yếu dòng vốn và thắt chặt tài khóa do nợ ngày càng tăng. Các nhà xuất khẩu năng lượng hoặc hàng hóa công nghiệp sẽ bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Đại dịch và những nỗ lực kiềm chế nó đã gây ra sự sụp đổ chưa từng có về nhu cầu dầu mỏ và sự lao dốc của giá dầu. Nhu cầu đối với kim loại và các mặt hàng liên quan đến vận tải như cao su và bạch kim được sử dụng trong phụ tùng ô tô cũng giảm mạnh. Mặc dù thị trường nông sản toàn cầu có nguồn cung dồi dào, nhưng các hạn chế thương mại và gián đoạn chuỗi cung ứng vẫn có thể gây ra các vấn đề an ninh lương thực ở một số nơi.

Một công nhân đeo khẩu trang ở khu vực châu Phi cận Sahara. © Lucian Coman/Shutterstock

Khả năng xảy ra kết quả tồi tệ hơn

Ngay cả triển vọng ảm đạm này cũng có nhiều bất ổn và rủi ro giảm giá đáng kể. Dự báo này giả định rằng đại dịch sẽ lắng xuống theo cách mà các nền kinh tế phát triển có thể hủy bỏ các biện pháp giảm thiểu trong nước trước giữa năm và các nước đang phát triển có thể hủy bỏ các biện pháp giảm thiểu trong nước sau giữa năm, các tác động lan tỏa bất lợi trên toàn cầu sẽ giảm bớt trong nửa cuối năm 2020 và tránh được một cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng. Theo kịch bản này, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi ở mức 4,2% trong năm 2021, mặc dù không nhiều.

Tuy nhiên, quan điểm này có thể lạc quan. Nếu dịch COVID-19 kéo dài, suy thoái có thể sâu hơn nếu các biện pháp hạn chế di chuyển được kéo dài hoặc tái áp đặt, hoặc nếu sự gián đoạn đối với các hoạt động kinh tế kéo dài. Các công ty có thể gặp khó khăn trong việc trả nợ, tâm lý ngại rủi ro gia tăng có thể dẫn đến chi phí đi vay cao hơn, và phá sản và vỡ nợ có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính ở nhiều quốc gia. Theo kịch bản này, tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể giảm gần 8% trong năm 2020.

Nhìn vào tốc độ mà cuộc khủng hoảng này vượt qua nền kinh tế toàn cầu có thể cung cấp manh mối về mức độ suy thoái sẽ sâu như thế nào. Việc giảm mạnh dự báo tăng trưởng toàn cầu cho thấy nhiều khả năng sẽ giảm sâu hơn nữa trong những tháng tới và các nhà hoạch định chính sách cần hành động nhiều hơn để hỗ trợ các hoạt động kinh tế.

Cuộc suy thoái COVID-19 đã chứng kiến sự tụt dốc nhanh nhất và dốc nhất trong các dự báo tăng trưởng đồng thuận trong số tất cả các cuộc suy thoái toàn cầu kể từ năm 1990

Dự báo đồng thuận về GDP toàn cầu (phần trăm)

Tháng 9 đến tháng 12 cho thấy các dự báo được đưa ra trong năm trước, và tháng 1 đến tháng 6 cho thấy dữ liệu của năm nay. Dữ liệu năm 1991 chỉ là dữ liệu của các nền kinh tế tiên tiến, điều này là do tính sẵn có của dữ liệu.

Nguồn: Kinh tế học đồng thuận của Ngân hàng Thế giới

Một khía cạnh đặc biệt đáng lo ngại của triển vọng là suy thoái toàn cầu sẽ gây ra thiệt hại về nhân đạo và kinh tế cho các nền kinh tế có khu vực phi chính thức rộng lớn, ước tính chiếm một phần ba GDP và khoảng 70% việc làm ở các thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Các nhà hoạch định chính sách phải xem xét các biện pháp đổi mới để hỗ trợ thu nhập cho những người lao động này và hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp này.

Thiệt hại lâu dài đối với sản lượng tiềm năng, tăng trưởng năng suất

Triển vọng Kinh tế Toàn cầu tháng 6 năm 2020 vượt ra ngoài các triển vọng ngắn hạn, tập trung vào các tác động có thể kéo dài của một cuộc suy thoái toàn cầu sâu sắc: sản lượng tiềm năng – mức sản lượng mà một nền kinh tế có thể đạt được trong điều kiện năng lực sản xuất đầy đủ và việc làm đầy đủ – và sự thụt lùi của năng suất lao động. Ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, bao gồm cả các nền kinh tế thu nhập thấp với khả năng chăm sóc sức khỏe hạn chế, nỗ lực kiềm chế COVID-19 có thể kích hoạt một cuộc suy thoái sâu hơn và dài hơn-làm trầm trọng thêm xu hướng tăng trưởng tiềm năng và tăng trưởng năng suất chậm lại trong nhiều thập kỷ. Nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển đã trải qua mức tăng trưởng yếu trước cuộc khủng hoảng này; Cú sốc của COVID-19 hiện khiến những thách thức mà các nền kinh tế này phải đối mặt trở nên nghiêm trọng hơn.

Một đặc điểm quan trọng khác của tình hình hiện nay là sự sụp đổ lịch sử của nhu cầu dầu và giá dầu. Một khi các hạn chế đối với hoạt động kinh tế được dỡ bỏ, giá dầu thấp có thể hỗ trợ ban đầu tạm thời cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ngay cả sau khi nhu cầu phục hồi, tác động tiêu cực đến các nước xuất khẩu năng lượng có thể vượt quá bất kỳ lợi ích nào đối với hoạt động của các nước nhập khẩu năng lượng. Giá dầu thấp tạo cơ hội cho các nước sản xuất dầu đa dạng hóa nền kinh tế. Ngoài ra, giá dầu lao dốc gần đây có thể tạo thêm động lực cho các cải cách trợ cấp năng lượng và làm sâu sắc hơn các cải cách này sau khi cuộc khủng hoảng y tế trước mắt lắng xuống.

Trước viễn cảnh đáng lo ngại này, ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách là giải quyết cuộc khủng hoảng y tế và kiềm chế thiệt hại kinh tế ngắn hạn. Về lâu dài, các nhà chức trách cần thực hiện các chương trình cải cách toàn diện nhằm cải thiện động lực cơ bản cho tăng trưởng kinh tế sau khi cuộc khủng hoảng được dỡ bỏ.

Cả chính sách tái thiết ngắn hạn và dài hạn đều cần tăng cường các dịch vụ y tế và xây dựng các biện pháp kích thích có mục tiêu để giúp khôi phục tăng trưởng, bao gồm hỗ trợ khu vực tư nhân và tài trợ trực tiếp cho người dân. Trong giai đoạn giảm nhẹ, các quốc gia nên tập trung duy trì các hoạt động kinh tế đồng thời hỗ trợ các hộ gia đình, doanh nghiệp và các dịch vụ cơ bản.

Phối hợp và hợp tác toàn cầu – các biện pháp cần thiết để làm chậm sự lây lan của đại dịch và các hành động kinh tế cần thiết để giảm thiểu thiệt hại kinh tế, bao gồm cả hỗ trợ quốc tế-mang lại cơ hội lớn nhất để đạt được các mục tiêu sức khỏe cộng đồng và đạt được sự phục hồi toàn cầu mạnh mẽ.

Nguồn: The Global Economic Outlook During the COVID-19 Pandemic: A Changed World. Web: www.worldbank.org

Việt dịch: Nguyễn Thành Sang.

Nhận xét

  1. Bài dịch rất hay. Mình từng đọc nhiều bài dịch về kinh tế nhưng nhiều bài nó bị không được trôi chảy khó hiểu cho người đọc. Riêng bài bạn dịch lại khác. (Y)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn bạn đã có hồi âm tích cực. Blog là người bạn chia sẻ kiến thức cho mọi người...

      Xóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th