Chuyển đến nội dung chính

4. NỘI ƯU NGOẠI HOẠN (THIÊN QUỐC NÀY KHÔNG THÁI BÌNH)

Giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản Tây phương phát triển bành trướng, vương triều Đại Thanh hủ bại, chịu mối đe dọa trước đại pháo cường liệt của đế quốc Tây phương, sự tàn lụi ấy đã tạo điều kiện cho cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc.

Bây giờ quay trở lại kể về tình hình xã hội và chính trị của vương triều Đại Thanh.
Từ giữa và sau kỳ của thế kỷ 18, vương triều Đại Thanh trải qua Khang–Càn thịnh thế đã đi tới suy vi. Mặc dù con rết trăm chân chết vẫn chưa cứng đờ nhưng đã qua mấy trăm năm phát triển, giống như một người ở tuổi xế chiều đã giải phóng hết năng lượng, đã lòi ra căn bệnh sắp chết khó lòng cứu chữa.
Bế quan tỏa quốc, thi hành chính sách bài ngoại mù quáng khiến Trung Quốc làm lỡ đi thời kỳ hoàng kim của cuộc Cách mạng công nghiệp; chính sách kinh tế trọng nông khinh thương khiến sự phát triển kinh tế của Trung Quốc rơi vào tình trạng đình đốn; chế độ tập quyền chuyên chế cao độ lại khiến nhân dân thiếu mất dân chủ và tự do. Đồng thời, kèm theo quan lại cai trị bại hoại là tham quan ô lại thịnh hành, trăm họ phú thuế chồng chất nặng nề. Đặc biệt nhờ quán triệt thực thi chính sách “người mới sinh không được đánh thuế” của hoàng đế Khang Hy nên dân số Trung Quốc đã sinh sôi quá đông đúc, từ buổi đầu nhà Thanh hơn một trăm triệu người đến thời kỳ Đạo Quang dân số đã tăng lên hơn ba trăm triệu. Lượng dân số gia tăng lớn dẫn đến vấn đề người thì đông đất thì chật dần dần phát sinh, đất đai bị kiêm tính nghiêm trọng, mâu thuẫn xã hội trở nên xấu đi. Nhân dân mất ruộng mất đất phải bán con bán cái đi lưu lạc tha hương hoặc làm ăn mày, hoặc trốn vào nơi rừng núi làm giặc cướp, càng nhiều người rơi vào cảnh cố nông, sống cuộc sống chẳng phải là con người. Toàn thể xã hội giống như một thùng thuốc súng, với tình thế này chỉ kích một phát là nổ.
Song kẻ thống trị triều Thanh vẫn cứ nắm mắt bịt tai mơ mộng đẹp về Thiên triều Đại quốc. Một nhà truyền giáo nước ngoài đã đưa ra tỉ dụ hình dung rằng Trung Quốc của thế kỷ 19 là một tên ăn mày kiêu ngạo, một mặt thì tự cho mình là đế quốc đàn anh, coi những quốc gia khác như mọi rợ. Mặt khác thì lại bần cùng lạc hậu, toàn cảnh thê lương.
Trái ngược với cảnh này là liệt cường Tây phương.
Sau khi con đường hàng hải mới được mở mang, liệt cường Tây phương dựa vào thực dân cướp đoạt và tích trữ lượng tư bản lớn, lại nhanh chóng hoàn thành cuộc Cách mạng công nghiệp của giai cấp tư sản, kiến lập thể chế Tư bản chủ nghĩa thích hợp để phát triển kinh tế và công–thương nghiệp cũng nhanh chóng phát đạt. Những năm 40 của thế kỷ 19, Anh Quốc đã dẫn đầu hoàn thành Cách mạng công nghiệp, sau đó lan tỏa sang nước Đức, mở ra tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa của xã hội Âu–Mỹ.
Nhu cầu cấp bách của liệt cường khi lớn mạnh lên là mở rộng thị trường hải ngoại. Từ năm 1793, Anh Quốc đã cho sai Macartney làm sứ thần dẫn phái đoàn sang Trung Quốc với danh nghĩa là chúc thọ vua Càn Long, thực tế là yêu cầu thông thương mậu dịch, nhưng đã bị hoàng đế Càn Long cự tuyệt.
Kiểu chính sách bế quan tự thủ, tự cao tự đại của Trung Quốc đã gây nên bất mãn mãnh liệt cho liệt cường Tây phương. Macartney đã từng báo cáo với quốc vương Anh: “Nếu Trung Quốc ngăn cấm Anh Quốc mậu dịch hoặc gây thiệt hại to lớn cho chúng ta thì mấy khẩu chiến hạm là được rồi.” Xem Trung Quốc không đáng một xu. Nhưng vì lúc bấy giờ Trung Quốc còn khá lớn mạnh, mặc dù hải phòng lơi lỏng, sức chiến đấu quân đội yếu nhưng vẫn chưa đến nỗi hễ chạm là vỡ đâu, Càn Long cũng không phải là hoàng đế Đạo Quang sau này. Quan trọng hơn là Anh Quốc bấy giờ vẫn không đủ thực lực của một đế quốc khổng lồ viễn chinh. Cho nên vấn đề này được gác lại.
Chưa đến bốn mươi năm, Anh Quốc đã quay trở lại, nhưng lần này không phải là để chúc thọ vua Đạo Quang đâu, họ mang theo mấy khẩu tàu chiến pháo mạnh vượt trùng dương mà đến, là vì thị trường của Trung Quốc, là vì cái gọi là lợi ích mậu dịch cho nước Đại Anh, điều đó càng cưỡng ép Trung Quốc cứ đóng chặt cánh cửa lớn của mình hơn.
Năm 1840, chiến tranh nha phiến lần thứ nhất bùng nổ, năm 1842, nhà Thanh thua trận. Theo thông lệ quốc gia, hai bên ký kết điều ước bất bình đẳng lần thứ nhất: Điều ước Nam Kinh. Cắt nhượng Hồng Kông cho Anh Quốc, mở cửa khẩu thông thương và bồi thường 21.000.000 lượng bạc.
Kéo theo sau, các nước Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Nga… ùn ùn giẫm lên, họ vui sướng giằng xé lấy đất đai Trung Quốc cổ xưa, xây sứ quán, định tô giới, phân chia phạm vi thế lực, nhao nhao tranh giành lấy lợi ích từ Trung Quốc. Đế quốc Đại Thanh theo thời mà đối mặt với nguy cơ diệt vong.
Càng nghiêm trọng hơn là chiến tranh nha phiến ngược lại để dẫn đến nha phiến (thuốc phiện) du nhập ào ào, điên cuồng gặm nhấm sức khỏe thể xác và tinh thần dân tộc của người Trung Quốc. Đồng thời, khoản bồi thường chiến tranh và mậu dịch nha phiến đã làm cho lượng tiền bạc lớn chảy ra ngoài. Bàn tay của bọn thực dân ranh ma đến tuyệt vời, vừa kiếm bạc tiền của bạn vừa hủy hoại thể xác và tinh thần của bạn, cho dù muốn chống chọi lại cũng không làm được gì hết.
Ngoại hoạn hãy gạt qua. Đối với kẻ thống trị triều Thanh mà nói, miễn giang sơn này không thay tên đổi họ là được. Từ Hy thái hậu về sau đã nói một câu lừng danh như vầy: “Thà tặng cho nước bạn chứ không cho gia nô.” Cắt đất bồi khoản chẳng qua là tặng cho nước bạn thôi, láng giềng hòa mục mà, dù sao thì giang sơn của Đại Thanh to bự đến thế mà. Đó là cách thắng lợi về tinh thần điển hình.
Nhưng điều mà kẻ thống trị sợ nhất là nội ưu. Tình hình quốc nội cuối thời nhà Thanh càng không yên tĩnh đâu.
Lượng bạc trắng lớn bị đổ ra ngoài trực tiếp gây nên hiện tượng khan hiếm tiền bạc. Thuế má mà trăm họ phải nộp là cần bạc, cho dù trong tay có tiền đồng cũng phải đổi thành bạc. Trong suốt gần hai trăm năm phát triển của nhà Thanh luôn áp dụng chính sách dùng cả bạc lẫn tiền, một–hai cục bạc đáng giá một ngàn xu tiền, nhưng sau chiến tranh nha phiến, cần có một ngàn năm trăm xu thậm chí hai ngàn xu mới có thể đổi được một–hai cục bạc. Bạn nghĩ bấy giờ trong tay trăm họ có thu nhập đâu, chỉ có một–hai xu là cùng, sống gian khổ vậy, tiền tích cóp được ít oi nhỏ hẹp. Vì nộp thuế mà vô số gia đình đã khuynh gia bại sản luôn.
Thiên tai thường đi kèm với nhân họa, suốt hơn mười năm sau chiến tranh nha phiến, trời cao cũng không chiếu cố, theo thống kê, cả lưu vực Hoàng Hà với lưu vực Trường Giang đã phát sinh hơn mười lần lụt lội rồi hạn hán, có địa phương còn xảy ra nạn sâu hại. Đây chắc có lẽ là trời cao bày tỏ niềm bất mãn đối với kẻ thống trị nhà Thanh bất tài hay sao, cứ giáng xuống tai dị hoài. Kết quả trực tiếp của thiên tai là dẫn đến ruộng nông sụt giảm và lúa thóc thất thu, trong xã hội nông nghiệp đó không phải là đòi mạng của nông dân sao? Trăm họ không còn kế sống, chỉ có thể mạo đi đường hiểm. Gương tạo phản của tổ tiên như Trần Thắng, Ngô Quảng rành rành ra kia, dù sao cũng là chết, chi bằng chết oanh liệt cho rồi.
Cần nên nói, người dân Trung Quốc vốn hiền lành, mấy ngàn năm nay họ luôn vâng làm theo tín điều chết hay không bằng sống bám, nếu còn có thể sống được ai lại mạo hiểm đi tạo phản để gây họa giết chết cả họ chứ. Nhưng chính quyền hủ bại đã không cho họ đường sống rồi, ý thức phản kháng không khuất phục trước vận mệnh trong lòng cũng tỉnh dậy luôn. Theo thời thế chỉ cần có người giương cờ khởi nghĩa là tự nhiên kẻ chạy theo như mây.
Cho nên từ thời Càn Long trở đi, họp đảng khởi nghĩa chủ yếu là nông dân cứ nổi dậy không ngừng như Bạch Liên giáo, Thiên Lý giáo, Thiên Địa hội, Niệp quân và Phúc quân ở phương Bắc v.v… Họ hoạt động sôi nổi khắp Giang Nam–Giang Bắc, giáng những đòn đả kích trầm trọng cho chính phủ nhà Thanh từng lần. Trong đó, Lưỡng Quảng là nơi bị hại lớn nhất của nha phiến và là nơi hứng chịu tai họa thiên nhiên nghiêm trọng nhất, phản kháng tự nhiên rất mạnh mẽ. Chúng ta sẽ phân tích trong việc truyền giáo ở Lưỡng Quảng sau đây.
Những cuộc họp đảng khởi nghĩa này đã bị tiêu diệt dưới sự đả kích của chính phủ nhà Thanh, điều đó tất nhiên bắt nguồn từ tính cục hạn của chính họ, như tổ chức không chặt chẽ, hoặc là tầm nhìn của người lãnh đạo kém cỏi v.v… Nhưng đã ăn mòn nghiêm trọng cơ thể của vương triều Đại Thanh, cũng đã gieo rắc hạt giống thù hận trong dân gian, đem lại điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc về sau, cũng là nguyên nhân quan trọng làm Thái Bình Thiên Quốc nhanh chóng phát triển lớn mạnh.

Người dịch: Nguyễn Thành Sang

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th