Chuyển đến nội dung chính

9. TÌNH THẾ NGUY CẤP: THIÊN PHỤ VÀ THIÊN HUYNH CÙNG HẠ PHÀM (THIÊN QUỐC NÀY KHÔNG THÁI BÌNH)

Dương Tú Thanh lên đồng đóng vai "Thiên phụ" Thượng đế Jehovah.

Phùng Vân Sơn bị bắt, Hồng Tú Toàn thì đi Quảng Đông, đương lúc bất thường Bái Thượng Đế giáo như rắn mất đầu. Những người cốt cán ngày đêm bàn thảo không biết làm gì. Các giáo đồ ngó thấy tình hình ấy ai cũng hoảng loạn trong lòng.
Hơn nữa bọn địa chủ vũ trang đả kích bách hại, tình thế hết sức nguy cấp. Nếu sự thái cứ tiếp tục phát triển, Bái Thượng Đế giáo có khả năng tan tành, thế lực truyền giáo mà Phùng Vân Sơn gầy dựng hai năm trước cũng sẽ chảy ra biển hết.
Tục ngữ có câu: “Thời thế tạo anh hùng.” Dương Tú Thanh đã làm nổi trội ngay lúc ấy.
Trước đó, Dương Tú Thanh chỉ là một trong những cốt cán của Bái Thượng Đế hội, cũng tức là đại đầu mục trong đám thợ đốt than ở núi Tử Kinh. Sau này, ông ta “thay trời truyền ngôn,” có quyền phát hiệu thi lệnh bao gồm luôn giáo chủ của Bái Thượng Đế hội, trở thành đại diện của Thần.
Đầu tiên nói về con người của Dương Tú Thanh, theo Quế Bình huyện chí ghi chép: “Dương Tú Thanh tính nhạy bén, ưa dùng quyền mưu, tự nói có thể biết chuyện tương lai trong mộng.” Xét câu nói này, hai điểm đầu thì rất có lý, nhìn vào quyền mưu của Dương Tú Thanh sau này đáng gọi là bậc đại tài, bất luận về mặt chỉ huy quân sự hay là quyết sách chiến lược đều tỏ ra tài năng trác việt, có thể nhìn ra con người ông trong đó là trí mưu hơn người một bậc. Song điểm cuối cùng thì đáng nghi vấn, từ việc ông bị giết trong sự biến Thiên Kinh thì có thể thấy ông ta không phải là thần, mà là một người có hùng tài đại lực song cũng là một nông dân hạn hẹp điển hình.
Dương Tú Thanh nhìn xa trông rộng, mục đích gia nhập Bái Thượng Đế giáo chính là muốn làm một sự nghiệp lớn, tất nhiên không thể đứng nhìn Bái Thượng Đế giáo tan vỡ như băng sập. Lúc này Bái Thượng Đế giáo không có thủ lĩnh, lòng người hoang mang, tự nhiên cần đến người lộ diện cầm đầu. Nhưng dùng biện pháp nào mới hữu hiệu đây? Đó là điều người trẻ tuổi có hùng tài đại lược này cần suy xét.
Đáng nói là lúc này, động cơ của Dương Tú Thanh vẫn thuần khiết, mục đích của ông là muốn cứu nguy Bái Thượng Đế giáo đang bị tê liệt, để cho tâm huyết đã tốn vô số của bản thân và rất nhiều người không trôi sông đổ biển.
Cũng tức là nhờ hành động “đập phá tượng thần” và sự gợi ý của thuật “lên đồng” (giáng đồng) ở địa phương, Dương Thanh bừng tỉnh. Trong những hành động đi theo Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn đập phá tượng thần, Dương Tú Thanh đã thấy rõ ràng quyền uy vô thượng của “thần” trong lòng người, thuật “lên đồng” này hết sức thịnh hành trong dân gian, nhà ai hễ có người đau đầu nóng sốt hay là mất đồ quan trọng cũng kéo nhau đi cầu cứu thuật “lên đồng,” sau đó hoàn toàn thành kính nghe theo hướng dẫn của “thần linh.” Kỳ thực, loại pháp thuật này hết sức phổ biến ở Trung Quốc đại lục thời xưa, đặc biệt là ở nông thôn, nó có tính thần bí và đôi khi trong quá trình thực thi cũng xác thực là có vài hiệu quả thần kỳ, dường như không thể cứ khái quát nó bằng một câu mê tín được, ngay cả những người già sống ở nông thôn đến bây giờ vẫn có trải nghiệm sâu sắc.
Vào lúc này Dương Tú Thanh đã lợi dụng thuật “lên đồng” được người địa phương rất tin, lần này ông ta thay “Thượng đế” truyền lời. Hiệu ứng thần kỳ và tác dụng to lớn của nó khiến Dương Tú Thanh theo lao luôn không rút lại được, về sau đã chính thức trở thành người thay lời của Thượng đế.
Ngày 3 tháng 3 năm 1848, cốt cán Bái Thượng Đế hội ở địa phương lại tụ họp bàn bạc, lúc mọi người đang bày kế chưa triển thì Dương Tú Thanh chợt té nhào ra đất bất tỉnh nhân sự, miệng, lỗ mũi và lỗ tai đều chảy nước ra. Dương Tú Thanh đột nhiên phát bệnh làm hoang mang cho cốt cán của Bái Thượng Đế hội, mọi người lo lắng vội dìu vào trong nấu thuốc thang cho uống. Sự tình kinh lạ xảy ra, bỗng thấy Dương Tú Thanh đứng phắt dậy đứng ngay giữa nhà mặt mày nghiêm nghị, khó coi, tỏ ra trang nghiêm, thần sắc dữ tợn, thân thể bình thường thấp bé cũng trở nên uy nghi lẫm liệt, một tay cầm kiếm quơ, ngón tay kia chỉ vô mọi người gằn giọng hét:
- Các tiểu tử hãy nghe, ta là Thiên phụ. Hôm nay lần đầu hạ phàm, mượn xác Dương Tú Thanh để truyền thánh chỉ.
Mọi người càng giật mình cứng đơ, phải đợi giây lát trấn tĩnh mới biết là “Thiên phụ Hoàng thượng đế” bình thường mình hay ngày đêm lễ bái rốt cuộc đã hạ phàm hóa giải khó khăn cho các tín đồ rồi, mọi người vội vàng quỳ rạp xuống khúm núm trước Thượng đế, kiền thành lắng nghe lời răn dạy của “Thiên phụ.” “Thiên phụ” bèn lớn tiếng nói đạo lý rằng mình có thể làm tất cả, không điều gì không biết, có mặt khắp mọi nơi, kêu Bái Thượng Đế giáo phải gánh vác trọng trách trảm yêu trừ ma, chỉ là trước mắt sẽ gặp một trăm ngày hoạn nạn, đó là để kiểm nghiệm lòng thành của hội chúng. Ngài còn yêu cầu tín đồ Bái Thượng Đế giáo các nơi đồng tâm hiệp lực vượt qua khó khăn. Cuối cùng, “Thiên phụ” lại răn bảo hội chúng rằng người tin sẽ được cứu, kẻ lung lay sẽ bị nạn tai.
“Thiên phụ” truyền xong thánh chỉ, cất tiếng hô to “Ta về trời đây.” Chỉ thấy Dương Tú Thanh rung lắc người lên té gục lại xuống đất, hôn mê bất tỉnh. Chốc chốc, Dương Tú Thanh bò nhổm dậy, sắc mặc trở lại hình dạng như ban đầu, có vẻ nom như vừa mới tỉnh dậy khỏi giấc mộng, ông hỏi hội chúng: hình như ta nằm giấc chiêm bao, có chuyện gì xảy ra không? Hội chúng thì đang kinh hãi còn chưa kịp hoàn hồn, trong hoảng hốt mới vỡ lẽ sự tình. Đương nhiên trong hội chúng cũng có vài người khác nghi ngờ. Nhưng nghĩ lại thì chuyện lạ khi nãy khẩu khí hình như không phải của Dương Tú Thanh lúc ngày thường, nghĩ như vậy rồi nỗi nghi ngờ trong lòng cũng tiêu tan.
Chắc chắn “Thiên phụ” hạ phàm lần này có ảnh hưởng vô cùng lớn lao đối với Bái Thượng Đế giáo, một mặt nó làm yên lòng người, mặt khác trong những ngày chờ đợi Hồng Tú Toàn không có mặt ở Quảng Tây đã hình thành trung tâm truyền lệnh mới, tránh làm cho Bái Thượng Đế giáo không có lãnh tụ mà bị tê liệt thậm chí thành cục diện tan tác, ngược lại khiến Bái Thượng Đế giáo càng phát triển lớn mạnh hơn nữa. Đương nhiên, đây cũng là mầm họa gây nội loạn cho Thái Bình Thiên Quốc về sau. Tục ngữ có câu: “Một núi không thể có hai hổ,” một tập đoàn thậm chí một quốc gia không thể có hai trung tâm. Có khả năng lúc bắt đầu thế này Dương Tú Thanh đã có chỗ không hài lòng với Hồng Tú Toàn, Hồng Tú Toàn đi xa đến Quảng Đông thực tế cũng là biểu hiện nhu nhược, không có trách nhiệm. Kéo theo uy quyền càng lúc càng lớn, Dương Tú Thanh càng thêm ngang ngược hơn, sự bất mãn với Hồng Tú Toàn ngày càng sâu, cho nên thường mượn lời Thượng đế phê bình Hồng Tú Toàn, sau cùng phát triển đến mức bắt đánh lên mông. Nếu Dương Tú Thanh không bị giết trong sự biến Thiên Kinh thì thay thế chỉ là chuyện sớm muộn. Chẳng qua là trước đó danh bất chính ngôn bất thuận, thời cơ chưa đến thôi. Đây là chuyện hẵng nói sau.
Sau đó, “Thiên huynh” Jesus cũng hạ phàm, do một vị cốt cán khác của Bái Thượng Đế giáo là Tiêu Triều Quý truyền ngôn, để yên lòng người nữa.
Trong khoảng thời gian này, bọn Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý đã áp dụng hai thực thi. Một là truyền nghiêm lệnh yêu cầu chúng Bái Thượng Đế giáo đoàn kết nhất trí để chống lại những tin đồn sai quấy của địa chủ vũ trang và kẻ địch, nhưng tránh hết mức đụng độ trực tiếp với kẻ địch. Hai là đúc tiền, Dương Tú Thanh dẫn mọi người từng nhà một gom đúc tiền, phát động người theo Bái Thượng Đế giáo ai có tiền bỏ tiền, ai không tiền bỏ sức, Dương Tú Thanh lại dẫn đầu đi chẻ củi đốt than mua tiền, đem toàn bộ số tiền quyên góp cho giáo hội. Giáo chúng gom góp bằng nhiều cách rốt cuộc đã chứa một khoản tiền lớn. Dương Tú Thanh phái người đi hối lộ quan phủ, hơn nữ Phùng Vân Sơn và Lư Lục ở trong tù kiên quyết phủ nhận tội danh “mưu phản,” vụ án đành phải nới tay. Phùng Vân Sơn được thả sau một trăm ngày giam giữ, nhưng phải bị áp giải về nguyên quán hối cải. Đáng tiếc là lúc này, Lư Lục đã bị hành hạ chết luôn trong ngục.
Trên đường bị giải về nguyên quán, Phùng Vân Sơn vẫn cất lời kích động tuyên truyền giáo lý cho hai binh lính áp giải. Dụ dỗ bằng cảnh đẹp “thiên đường,” hai binh lính kia đã quyết định bỏ luôn công việc gia nhập Bái Thượng Đế giáo.
Thế là, ba người lại quay trở về miền núi Tử Kinh ở Quảng Tây. Sau khi biết chuyện Dương Tú Thanh thay “Thiên phụ” truyền ngôn, Phùng Vân Sơn cảm thấy “mới ba tháng trong tù, bằng nhiều năm ngoài cõi,” trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là chính mình được cứu, Bái Thượng Đế giáo cũng không vì cú đả kích lần này mà suy yếu, ngược lại thêm đoàn kết lớn mạnh. Lo là ngoài vị “giáo chủ” kia còn có nhiều trung tâm nữa, hơn nữa là thay “Thiên phụ” truyền ngôn, thế tất làm ảnh hưởng đến quyền uy của giáo chủ, cũng bất lợi cho sự phát triển Bái Thượng Đế giáo mai sau.
Đối với Dương Tú Thanh thay “Thiên phụ” truyền ngôn, Phùng Vân Sơn cũng không có biểu lộ gì, chuyện trọng đại như thế Phùng Vân Sơn cảm thấy nên tìm Hồng Tú Toàn để thương lượng, cho nên nán lại Tử Kinh sơn một ngày ông bèn lên đường đến Quảng Đông để tìm Hồng Tú Toàn.
Lại nói Hồng Tú Toàn, sau khi đến Quảng Châu với nguyện vọng tìm Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh cứu chuộc Phùng Vân Sơn tan tành, ông vẫn ở lì lại Quảng Châu. Thời gian này có thể là ông cũng biết Bái Thượng Đế giáo danh bất chính ngôn bất thuận, càng không có pháp luật bảo đảm. Thế là ông đến Quảng Châu hỏi thăm mục sư La Hiếu Toàn, mong La Hiếu Toàn làm lễ rửa tội cho ông để có thể mang tư cách truyền giáo chính thức đi tuyên dương Bái Thượng Đế giáo. Song lí luận này trái ngược giáo lý cơ bản của Cơ-đốc giáo, gây phản cảm cho La Hiếu Toàn, huống gì Hồng Tú Toàn lấy tư cách là con thứ hai của Chúa Trời, tất nhiên không thể khiến La Hiếu Toàn tin phục, kết quả là nguyện vọng làm lễ rửa tội cũng tan luôn. Bởi vậy Hồng Tú Toàn cứ ở Quảng Châu suốt mấy tháng không nên kết quả một việc gì hết. Lúc này đang là lúc Phùng Vân Sơn bị giam giữ trong đại lao, sống chết chỉ như một lằn dây, ông thì vẫn ảo tưởng là nhờ Tổng đốc Lưỡng Quảng Kỳ Anh hạ lệnh phóng thích hai người bọn Phùng Vân Sơn, đã không thành công lại không tích cực nghĩ cách, cũng không quay về núi Tử Kinh tìm cách giải cứu hai người đó với các giáo đồ, từ đó đã ban cơ hội cho Dương Tú Thanh chia vai ngang vế với mình. Còn ông thì trốn ở Quảng Châu để mặc cho bọn Phùng Vân Sơn sống chết tùy nghi, lại ảo tưởng truyền giáo bằng tư cách nhà truyền giáo hợp pháp, thật đúng là chí khí của kẻ thư sinh không lo nổi công việc, ai mà nể cho được. Khuyết điểm trong tính cách của người này có thể thấy như là lí tưởng hóa, không có trách nhiệm v.v… Có thể nói nếu không có sự phát triển hình thế và lòng cúc cung trung thành của Phùng Vân Sơn chống đỡ thì người này rất khó thành tựu đại sự. Cái ông ta thạo chắc chỉ có phong trào tạo thần và quản lý nữ nhân hậu cung, lại thêm nói khoác lung tung.
Ngay lúc Phùng Vân Sơn đi Quảng Đông tìm kiếm Hồng Tú Toàn, Hồng Tú Toàn chắc là đang ngồi đực người ở Quảng Đông, cũng có thể tính là đã cắt đứt những chuyện ở Quảng Tây, ông lên đường về lại Quảng Tây, hai người lại đi chéo đường với nhau. Đó là chuyến đi Quảng Tây lần thứ ba của Hồng Tú Toàn, chẳng qua lần này hình như ông không nán nghỉ lại đâu cả. Khi nghe nói Phùng Vân Sơn đã xuất ngục và đang đi đến Quảng Đông, ông cũng vội chạy tháo ngay về Quảng Đông, trong điều kiện giao thông không thuận lợi ngày xưa, đường từ Quảng Đông đến Quảng Tây lại khúc khuỷu khó đi, chủ yếu phải đi bằng đường bộ, nơi có sông phải ngồi chờ thuyền ghe. Cứ dây dưa lần hồi vậy, đến lúc gặp nhau đã là tháng 11 năm 1848 rồi, cách thời gian Phùng Vân Sơn vào ngục đã hơn 8 tháng. Lần gặp lại này hai người nán ở Quảng Đông hơn 7 tháng nữa, cho đến tháng 7 năm 1849 mới trở lại núi Tử Kinh. Trong suốt thời gian hơn một năm ấy, Dương Tú Thanh một chữ bẻ đôi cũng không biết kia đã tạo được quyền uy tuyệt đối cho mình thông qua lời Thượng đế rồi, cũng đã thể hiện được tài năng tổ chức, tài năng quân sự lãnh đạo hoạt động giải cứu Phùng Vân Sơn cũng như đối phó với đám địa chủ vũ trang. Những tài năng này không phải do trời sinh mà là liên tục được rèn luyện và phát triển trong hoàn cảnh nhất định. Nếu Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn cứ ở lì mãi núi Tử Kinh, đặc biệt là Hồng Tú Toàn có thể phụ trách hành động giải cứu Phùng Vân Sơn từ đầu chí cuối thế thì lịch sử Thái Bình Thiên Quốc sau này có thể phải viết lại cũng nên.
Vậy rồi, hai người Hồng Tú Toàn–Phùng Vân Sơn ở lại Quảng Đông hơn 7 tháng làm gì, Thái Bình Thiên Quốc khởi nghĩa ký nói rất rõ ràng, họ lợi dụng thời gian thả rông để thảo luận các vấn đề của Thái Bình Thiên Quốc.
Khoảng thời gian này Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn đã viết ra Thái Bình thiên nhật để cung cấp y cứ lí luận về địa vị thần của Hồng Tú Toàn. Trong đó kể lại việc “nhận mệnh với trời cao” năm 1837 và quá trình hai lần đi Quảng Tây. Ngoài ra những thay đổi về diện mạo và tính cách của Hồng Tú Toàn sau khi “nhận mệnh với trời cao” cũng được mô tả hết sức chi tiết. Điều quan trọng hơn nữa là đã thảo luận giải quyết luôn chuyện Dương Tú Thanh mượn “Thiên phụ” truyền lời.
Để đoàn kết nội bộ nên thừa nhận Dương Tú Thanh có quyền thay mặt “Thiên phụ” truyền lời, Tiêu Triều Quý có quyền thay mặt “Thiên huynh” truyền lời.
Sắp xếp lại ngôi thứ lãnh đạo của Bái Thượng Đế hội. Thượng đế là Thiên phụ, Jesus là Thiên huynh, còn lại là Hồng Tú Toàn, Phùng Vân Sơn, Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quý lần lượt là con thứ hai, thứ ba, thứ tư và thứ năm của Thượng đế.
Đáng nói, đây là biến động nhân sự trọng đại lần này của Bái Thượng Đế hội. Trong quá trình truyền giáo của Bái Thượng Đế hội, Phùng Vân Sơn chỉ luôn làm nổi bật địa vị “thần” của Hồng Tú Toàn, Hồng Tú Toàn là lãnh tụ và là trung tâm tất nhiên. Như vậy, Phùng Vân Sơn cũng chỉ là một phàm nhân, chứ đừng nói là phận đồ đệ như Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý. Bây giờ để Bái Thượng Đế hội không đến nỗi bị chia rẽ, hoặc giả nói sự tồn tại chân của Thượng đế càng thể hiện, họ đành thỏa hiệp và không thể không thừa nhận tư cách người thay lời của Dương Tú Thanh và Tiêu Triều Quý.
Làm như vậy hiệu quả trực tiếp là làm nổi địa vị của hai người Dương và Tiêu, hai người đó không chỉ là con cái của “Thiên phụ” mà còn có quyền thay mặt “Thiên phụ” và “Thiên huynh” phát bố “thánh chỉ,” địa vị quyền uy và trung tâm của một cá nhân được thay thế bằng nhiều quyền uy hơn, mối quan hệ rõ là phức tạp chằng chéo. Có lúc Hồng và Phùng lãnh đạo Dương và Tiêu, có khi Dương và Tiêu lại hạ lệnh cho Hồng và Phùng. Trong cuộc đấu quyền lực thì Hồng và Phùng thường đặt vào vị trí khó xử, điều đó hiển nhiên là bất lợi cho sự phát triển của Bái Thượng Đế hội và Thái Bình Thiên Quốc.

Người dịch: Nguyễn Thành Sang

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th