Chuyển đến nội dung chính

6. TRUYỀN GIÁO Ở LƯỠNG QUẢNG – SÁNG NGHIỆP CŨNG GIAN NAN (THIÊN QUỐC NÀY KHÔNG THÁI BÌNH)

Bái Thượng Đế giáo vì chủ trương thờ Thiên Chúa nên bất khoan dung với các thần tượng khác, thường đập phá chùa miếu, phá bài vị Khổng Tử, thần, Phật...

Trong quá trình truyền giáo, Hồng Tú Toàn còn gặp cản trở trùng trùng trong nội bộ, như là bị phụ huynh la mắng, đánh đập, sự phản đối của tộc trưởng gia tộc v.v… Chúng ta biết trong xã hội phong kiến, tộc trưởng là người có quyền lực tối cao, dù ông ấy không phải là quan phủ nhà nước nhưng có khi còn có thể quyết định đến danh dự thậm chí là tính mạng của một thành viên gia tộc. Sách sử ghi lại, rằm tháng giêng năm 1844 nông lịch, vì địa phương có phong tục tập quán “đài hội” (hội khiêng rước), người trưởng tộc lệnh cho Hồng Tú Toàn soạn bài thơ văn để ca tụng thần Phật, Hồng Tú Toàn biết là không thể làm trái mệnh lệnh của tộc trưởng nhưng cũng không thể viết, nên đã phao tin rằng nếu ai bắt ông viết văn nữa thì nhà kẻ đó sẽ chịu tang tóc, sau khi tộc trưởng biết tin cũng không muốn xé to chuyện nên không làm cho ra lẽ. Hệt vậy, hai người đám Phùng Vân Sơn cũng có trải nghiệm tương tự. Thế là trở thành bọn người ngớ ngẩn ở cái thôn này.
Qua tháng giêng, Hồng Tú Toàn kiếm một vị trí dạy tư thục ở ngoài thôn, thấy học vấn của ông cũng có chỗ đáng bội phục, chí ít tìm việc làm cũng không quá thành vấn đề.
Mới đầu học, Hồng Tú Toàn tập trung bọn học trò lại tuyên bố bằng giọng điệu lớn lối quen dùng của mình, nói thế giới chỉ có một vị thần đó chính là Thượng đế, những thần khác đều là bàng môn tà đạo, đều là tượng gỗ, đất sét, là yêu ma quỷ quái, chúng ta phải diệt trừ chúng. Cất lời nói lên rồi nhấc luôn bài vị Khổng Tử trên bàn thờ đập liệng xuống đất, lấy chân giẫm lên nói: Đây chính là yêu ma.
Đó là lần đầu tiên Hồng Tú Toàn thách thức với bài vị Khổng Tử, thái độ kịch liệt này của ông biểu thị sự quyết liệt triệt để đối với Khổng Tử và Nho học, hoặc có thể nói đó là sự quyết liệt với văn hóa truyền thống Trung Quốc, làm được đến như vậy thật không dễ dàng gì. Từ đó, Hồng Tú Toàn như lao theo mũi tên, nhất loạt đem dẹp bỏ hết tất cả những bài vị thần linh đã quen trong lòng người như Táo quân, Long vương v.v… Hành vi đó về sau đã phát triển thành đập chùa miếu, đốt tượng thần, thậm chí giết người có học. Kỳ thực, đây cũng là biểu hiện méo mó về tâm tính của Hồng Tú Toàn, ông đi thi nhiều lần không đậu nên sâu thẳm đáy lòng đầy bất mãn cực độ đối với chế độ khoa cử, bây giờ đem oán hận đầy bụng phát tiết lên bài vị của Khổng Tử và những người có học, nhưng mặt khác ông lại không thể không mưu sinh nên kiếm nghề dạy tư thục. Vào thời xưa, địa vị của Khổng Tử được tôn kính. Đặc biệt là đời Thanh, nhằm ổn định nền thống trị nên nhà thống trị tôn sùng Khổng Tử là bậc Văn Thánh, “Chí thánh Tiên sư” – tức là thần linh mà người đọc sách có học trong thiên hạ thờ phụng chung.
Đập bài vị Khổng Tử tất nhiên là không thể làm thầy dạy học được rồi, nói cách khác là Hồng Tú Toàn thất nghiệp luôn. Phùng Vân Sơn cũng không khá hơn, mất đi nghề kiếm cơm may áo.
Truyền đạo ở Quảng Đông gặp trắc trở, chi bằng xoay con đường khác. Bắt đầu từ lúc đó ông với Phùng Vân Sơn khởi hành lộ trình chuyên đi truyền giáo của đời mình.
Tháng 4 năm 1844, Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn rời khỏi quê nhà huyện Hoa, Quảng Đông, cất bước chu du thiên hạ, một mặt truyền giáo giảng đạo, nhưng hiệu quả rất kém, 34 ngày sau hai người mới đến được thôn Tứ Cốc, huyện Quý, Quảng Tây.
Thôn Tứ Cốc là cứ điểm giảng đạo đầu tiên của nhóm người Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn. Đó là một miền núi biên viễn. Đời sống nhân dân khá gian khổ, cách tuyệt với thế giới bên ngoài, đại sự bên ngoài không đồn tới được, người sống trong đó rất ít tiếp xúc với tin tức bên ngoài nên đã hình thành thế cục núi cao xa lệnh vua, một mình nơi non thẳm.
Hồng Tú Toàn đến nơi này đương nhiên có mục đích của ông, ở đó có người họ hàng của ông tức là anh họ Vương Thịnh Quân. Một đằng có ý là rong ruổi hang cùng ngõ vực, hai nữa là tìm một chốn dừng chân truyền giáo. Nhìn thấy họ, người bà con xa tự dưng vui ra mặt, tiếp đãi nhiệt tình. Không bao lâu, nhờ có Vương Thịnh Quân giới thiệu, hai người đều đảm nhiệm làm thầy dạy tư học cho ngôi trường gần đó. Những ngày tiếp theo, hai người ban ngày lên dạy, ban đêm khóa cửa để tuyên truyền giáo lý Bái Thượng Đế giáo cho những người nghèo khổ ấy, giảng giải câu chuyện Hồng Tú Toàn đắc đạo với trời, mọi người đều nghe thấy rất thú vị. Hình tượng của Thượng đế bắt đầu khắc sâu vào lòng người nơi ấy, không ít người đã chấp nhận lễ rửa tội, trở thành tín đồ của Bái Thượng Đế giáo.
Trong đó có hai sự kiện làm cho Bái Thượng Đế giáo lan truyền và mở rộng nhanh chóng ở địa phương đó.
Một là giải cứu con của Vương Thịnh Quân ra khỏi ngục, con của Vương Thịnh Quân là Vương Duy Chính lúc đó bị giam trong ngục tù, nói là phạm tội, thực ra có khả năng là do vu cáo, hoặc giả là không có chứng cứ phạm tội. Dẫu vậy cứ bị giam trong ngục mà vẫn không thể định tội. Sau khi Hồng Tú Toàn biết tin bèn nói với Vương Thịnh Quân chỉ có tín ngưỡng Thượng đế mới có thể miễn trừ tai họa này. Tiếp theo, Hồng Tú Toàn viết một bức thư cho quan tri huyện huyện Quý, chắc có lẽ bức thư này nói có lý có cứ, hơn nữa thư pháp của Hồng Tú Toàn cũng khá lắm, quan tri huyện huyện Quý không rõ hoàn cảnh của người viết thư, muốn yên chuyện cho xong, với lại bản thân Vương Duy Chính cũng không có gì to tát nên mới thả cậu ta ra.
Giáo đồ Bái Thượng Đế giáo bèn quy công chuyện đó là do Thượng Đế phù hộ và Hồng Tú Toàn thần thông quảng đại, mà thật nếu chúng ta nhìn thì cũng có tính kỳ dị nhất định, tính kỳ dị của Hồng Tú Toàn là không thể dùng mê tín giản đơn mà có thể thuyết phục, kiểu như đồng cốt vu thuật, còn có một số chuyện thần kỳ trong dân gian rất khó mà nói rõ liền.
Sau đó, cả nhà Vương Thịnh Quân gia nhập Bái Thượng Đế giáo ngay lập tức, trở thành phần tử tích cực tuyên truyền giáo lý, đặc biệt là Vương Duy Chính tuổi trẻ đang hăng, lại đem trải nghiệm bản thân mình để tuyên truyền uy lực đức Thượng đế và thần thông quảng đại của Hồng giáo chủ, tất nhiên là đạt hiệu quả hơn gấp bội, từ đó thu hút được nhiều người gia nhập Bái Thượng Đế giáo hơn.
Sự kiện khác là khiêu chiến với Lục Ô thần. Dưới ngọn Ô Sơn có một ngôi miếu Lục Ô, cách thôn Tứ Cốc chỉ vài dặm, trong miếu có thờ hai tượng thần một nam một nữ, nghe đồn thần này vốn là nam nữ hợp hoan mà chết, từ đó trở thành thần. Kiểu thần này trong dân gian gọi là tà thần, rõ ràng độc ác, không phải khoan dung độ lượng như bậc chính thần, ai thờ nó thì được phù hộ, còn như bất kính thì sẽ bị nó giáng tội, kinh nghiệm nhiều lần trước đây đều chứng minh nó linh nghiệm vô cùng.
Sau khi Hồng Tú Toàn và Phùng Vân Sơn bàn bạc qua bèn nhắm mục tiêu vào Lục Ô thần đang có ảnh hưởng ấy. Hai người dẫn theo một số giáo đồ của Bái Thượng Đế giáo, nhằm phao rộng thanh thế, họ khua trống gõ to cất khẩu hiệu lớn là đuổi cổ miếu Lục Ô.
Ở trước tượng thần, Hồng Tú Toàn rảo đứng bước, kêu giáo đồ đệ bút lông, mài mực ra rồi quẹt bút lông thấm đầy mực viết một bài thơ nên vách tường cạnh tượng thần, nội dung tất nhiên là trách mắng thần Lục Ô, viết xong chữ cuối cùng ông dùng quản bút quăng vào tượng thần một cái cất lớn giọng hô “trảm yêu.” Lạ lùng thay, bức tượng ứng thanh ngã xuống đất. Người đời sau đoán chắc là có thể tượng thần sớm đã bị mối mọt ăn rỗng, chỉ cần một chút ngoại lực nhẹ là tự nhiên vỡ vụn. Cũng có người nói tượng thần Lục Ô sớm đã bị sắp xếp có mưu đồ rồi. Những điều này chúng ta cứ hẵng tạm tin vậy.
Sự tích Hồng Tú Toàn một bút làm lật ngã thần Lục Ô lan truyền đi tức tốc ở địa phương, người ta không thấy thần linh giáng tội theo hạn trước đây, ngược lại thấy Hồng giáo chủ thần thái ngút trời đi nghênh ngang truyền giáo ngoài đường. Cứ như thế mọi người đều biết có một vị Hồng giáo chủ đến từ Quảng Đông thần thông quảng đại, có thể trảm yêu trừ ma, cứu vớt trăm họ. Hồng Tú Toàn trở thành vị thần mới được dân bản địa coi như vị thần sống luôn, thế là người gia nhập Bái Thượng Đế giáo càng đông hơn, người theo Bái Thượng Đế giáo cứ thế phát triển lên tới mấy trăm người.
Về sau, nhóm người Hồng Tú Toàn lại dùng phương pháp tương tự phá hủy miếu Cam Vương ở miền núi Tử Kinh, nảy sinh ảnh hưởng còn lớn hơn nữa.
Có thể thấy trong quá trình truyền giáo tại Lưỡng Quảng, Hồng Tú Toàn đã áp dụng biện pháp cùng vẽ bằng hai bút, một mặt truyền bá giáo lý khuyên nhủ người dân gia nhập Bái Thượng Đế giáo, mặt khác là nhắm vào tâm lý mê tín thần linh ngu muội vô tri của bách tính địa phương, phá hủy những ngẫu tượng được họ sùng bái kính sợ. Từ đó đã dựng nên quyền uy cao thượng tột bậc của Bái Thượng Đế giáo.
Nên nói rằng thủ đoạn của Hồng Tú Toàn thật là cao minh, tục ngữ có câu: “Miệng nói vô bằng,” không phải anh nói Thượng đế là chân thần duy nhất của nhân gian, mình là con thứ hai của Thượng đế, do Thượng đế phái xuống nhân gian để trảm yêu trừ ma sao? Có bằng cứ gì không nào? Lật nhào mấy tên tà thần kia, hơn nữa họ còn không tài nào giáng tội anh được, hoặc nói là không dám giáng tội. Đó chính là cách chứng minh hay nhất. Nó chứng minh rằng thần thông của vị Hồng giáo chủ này lớn hơn đám thần linh kia, lúc này, người ta cải sang tín ngưỡng đức Thượng Đế thần thông quảng đại hơn cả Hồng giáo chủ là điều tự nhiên dĩ nhiên.
Lợi dụng tâm lý mê tín của người ta quả là một liều thuốc hay của những kẻ làm công tác tạo phản xưa nay, Bái Thượng Đế giáo của Hồng Tú Toàn đã thủy chung vận dụng một cách nhuần nhuyễn.
Nhưng quá trình truyền giáo này cũng không giữ được lâu dài, giữa Hồng Tú Toàn xảy ra bất đồng ý kiến với Phùng Vân Sơn, sau đó Hồng Tú Toàn cả giận rồi bỏ về quê nhà, tháng 9 năm 1844 Phùng Vân Sơn cũng rời khỏi thôn Tứ Cốc đi đến vùng núi Tử Kinh bắt đầu quãng thời gian truyền giáo một mình suốt hơn hai năm.

Người dịch: Nguyễn Thành Sang

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi thứ 1 (Nam Bắc triều Đại chiến Diễn nghĩa)

  b õ a   NAM–B Ắ C TRI Ề U ĐẠ I CHI Ế N DI Ễ N NGH Ĩ A Romance of Northern and Southern dynasties 南北朝大戰演義     Tác gi ả CỰ LANG (NGUY Ễ N TH À NH SANG) H ồ i th ứ 1: Cảnh hàn vi, cô mợ khinh bỉ Thi võ tr ạ ng, anh hùng long vân Có bài th ơ r ằ ng: Cu ồ n cu ộ n C ấ m Giang đ ông ra bi ể n, H ả i D ươ ng long khí thu ỷ phong li ề n. R ồ i đ ây thiên h ạ ba đ ào n ổ i, Th ế s ự bi ế t ai m ớ i thánh hi ề n? Tương truyền từ cổ đại, bên nước Tàu ( 匿艚 ) có tam đại Hạ ( 夏 ), Thương ( 商 ), Chu ( 周 ). Tổ của nhà Chu là Văn Vương Cơ Xương ( 文王姬昌 ) có một trăm con, trong số đó có người con thứ tên là Cơ Chấn Đạc ( 姬振鐸 ) sau này được phong làm bá tước ( 伯爵 ) ở nước Tào ( 曹國 ), truyền hai mươi sáu đời đến Tào bá Dương ( 曹伯陽 ) thì bị diệt quốc, có người hậu duệ là Cơ Chất Khiết ( 姬騭絜 ) ở lại làm dân của nước Tống ( 宋國 ). Nước Tống sau này bị nước Tề ( 齊國 ) diệt vong, dòng dõi Cơ Chất Khiết lại trở thành dân nước Tề. Nước Tề cuối cùng bị n

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ”

NHỮNG BIỆN LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH (NIYĀMA) TRONG “LUẬN SỰ” [1] Tác giả: JAMES P. MCDERMO. Dịch Việt: Nguyễn Thành Sang. Nguyên tác: “The Kathāvatthu Niyāma Debates,” trích Chuyên san Hiệp hội Phật học Quốc tế (The Journal of the International Association of Buddhist Studies), tập 12, năm 1989, số 1. Một loạt những biện luận về các điều được phiên dịch nhiều kiểu khác nhau là “đảm bảo” (assurance), “tính cố định” (fixity), “định số” (destiny), và “xác định” (certitude; Pāḷi: niyāma , tham khảo thêm về niyata ) được phân bố rộng rãi thông qua Luận Sự phẩm loại luận ( Kathāvatthuppakaraṇa ). [2] Những cuộc luận chiến này chủ yếu được quan tâm với những hàm nghĩa của sự tiến nhập giải thoát đạo. Theo Luận Sự phẩm loại luận Nghĩa sớ ( Kathāvatthuppakaraṇa Aṭṭhakathā ), những giáo đồ bộ phái phân phụ của Án-đạt-la bộ ( Andhaka ) là Tây Sơn Trụ bộ ( Aparaseliya ) với Đông Sơn Trụ bộ ( Pubbaseliya ), và Bắc Đạo bộ ( Uttarāpathaka ), cũng như giáo đồ Thượng Tọa bộ ( The

CÁC CHÍNH QUYỀN QUY TỤ BÍ MẬT BỊ NHÀ NƯỚC TRUNG CỘNG GẮN NHÃN “PHẢN ĐỘNG” VÀ THỦ TIÊU (Kỳ 1)

Các chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t v ớ i mong mu ố n xây d ự ng chính quy ề n c ủ a h ọ , vô tình hay h ữ u ý vì ra đờ i trong th ờ i đạ i có chính ph ủ C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa hình thành nên đ ã b ị quy k ế t là nh ữ ng l ự c l ượ ng “ph ả n độ ng” và b ị nhà n ướ c Trung C ộ ng ra s ứ c đ à n á p. Nh ữ ng th ự c th ể chính quy ề n này đ ã ho ạ t độ ng trong lãnh th ổ c ủ a C ộ ng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau đ ó đ ã b ị chính ph ủ các c ấ p, c ơ quan t ư ph á p v à qu â n độ i Trung C ộ ng th ẳ ng tay tiêu di ệ t. Chúng ta hãy cùng tìm hi ể u v ề quá trình hình thành và b ị di ệ t c ủ a các chính quy ề n này. Giai đ o ạ n tr ướ c n ă m 1960 1. Th ượ ng Minh qu ố c ( 尚明國 ) Th ờ i gian t ồ n t ạ i: 1937–1951 (14 n ă m) Hoàng đế : L ư u Kim Lan ( 劉金蘭 ) Niên hi ệ u: Th ượ ng Minh ( 尚明 ) Th ủ đ ô d ự đị nh: Trung Kinh (t ứ c B ắ c Kinh) C ă n c ứ đị a: huy ệ n Oa D ươ ng, t ỉ nh An Huy Th ượ ng Minh Qu ố c là chính quy ề n quy t ụ bí m ậ t do th